TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KHÁNH VĨNH – TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 04/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/06/2022 VỀ LY HÔN
Ngày 13 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa xét xử công khai vụ án Hôn nhân - gia đình sơ thẩm thụ lý số: 60/2021/TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 12 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2022/QĐXX-ST ngày 11 tháng 5 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2022/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Cà Ư, sinh năm 1995, có đơn xin xét xử vắng mặt. Địa chỉ: Thôn GB, xã S, huyện K, tỉnh Khánh Hòa.
2. Bị đơn: Ông Ha D, sinh năm 1996, vắng mặt.
Địa chỉ: Thôn GB, xã S, huyện K, tỉnh Khánh Hòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 04/10/2021,biên bản lấy lời khai ngày 29/12/2021 nguyên đơn bà Cà Ư trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Ha D kết hôn năm 2017 đến năm 2018 đăng ký tại Uỷ ban nhân dân xã Sơn Thái. Sau khi kết hôn ông bà chung sống tại thôn GB, xã S, huyện K và có 01 con chung Hà Quốc Đ, sinh ngày 16/4/2018. Quá trình sống chung giữa hai vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm về mọi mặt, ông D thiếu trách nhiệm với gia đình, thường xuyên ăn nhậu về nhà gây sự đánh đập bà. Từ những mâu thuẫn vợ chồng ông D bỏ nhà đi nơi khác ở tháng từ 10/2021 cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Ha D. Về con chung: Sau khi ly hôn bà Ư yêu cầu được nuôi dưỡng con chung đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung bà Ư khai không có nên không yêu cầu tòa án giải quyết.
* Đối với bị đơn ông Ha D: Tòa án nhân dân huyện Khánh Vĩnh đã tiến hành thực hiện các thủ tục triệu tập, xác minh và niêm yết hợp lệ để lấy lời khai theo đúng quy định của pháp luật nhưng ông D cố tình trốn tránh không đến Tòa án để giải quyết và cũng không có ý kiến bằng văn bản đối với yêu cầu khởi kiện của bà Cà Ư nên Tòa án đưa vụ án ra giải quyết theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn từ khi thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án là đúng theo quy định. Đối với bị đơn ông Ha D đã được Tòa án triệu tập, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bà cố tình trốn tránh không có mặt tại phiên tòa nhằm bảo vệ quyền lợi cho mình do đó tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông D là đúng theo quy định của pháp luật.
Về thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc giải quyết vụ án: Trong quá trình giải quyết vụ án đến trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án đã thực hiện việc thu thập tài liệu chứng cứ theo quy định.
Về nội dung vụ án: Về hôn nhân, đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc ly hôn; Về con chung: Đề nghị HĐXX giao con chung cho nguyên đơn nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Cà Ư khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét; Về án phí đề nghị HĐXX giải quyết theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Cà Ư vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn ông Ha D đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Tòa án đã tiến hành thủ tục niêm yết tại địa phương và nơi cư trú, do đó Tòa án nhân dân huyện Khánh Vĩnh tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng với quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Cà Ư và ông Ha D kết hôn năm 2017, đến năm 2018 đăng ký kết hôn tại UBND xã Sơn Thái và đã được UBND xã cấp giấy chứng nhận kết hôn số 02, ngày 15/3/2018. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa bà Ư và ông D là hợp pháp.
Trong quá trình chung sống, giữa bà Ư và ông D thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bất đồng quan điểm dẫn đến tranh cãi, do ông D thiếu trách nhiệm với gia đình, ăn nhậu về nhà đánh đập bà Ư. Sau khi xảy ra mâu thuẫn ông D bỏ nhà đi từ tháng 10 năm 2021 cho đến nay. Theo kết quả xác minh tại địa phương ông bà đang sinh sống cho thấy quá trình sống chung giữa bà Ư và ông D thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, cãi vã, hiện tại bà Ư và ông D không còn sống chung với nhau. Hội đồng xét xử xét thấy, xuất phát từ bất đồng quan điểm trong cuộc sống dẫn đến mâu thuẫn làm cho tình cảm vợ chồng bị rạn nứt, việc quan tâm, chăm sóc lẫn nhau không còn, do đó mâu thuẫn giữa bà Ư và ông D đã đến mức trầm trọng nên cuộc sống hôn nhân không thể kéo dài. Vì vậy có duy trì quan hệ hôn nhân này cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai và mục đích của hôn nhân cũng không đạt được. Do đó, căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Cà Ư đối với ông Ha D.
[3] Về con chung: Bà Cà Ư và ông Ha D có 01 con chung là Hà Quốc Đ, sinh ngày 04/4/2018. Trong quá trình giải quyết vụ án bà Ư yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến tuổi trưởng thành. Bà Ư không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con. Kể từ thời điểm bà Ư và ông D không còn sống chung, con chung đang do bà Ư trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, sau khi ly hôn việc giao con chưa thành niên cho người nào nuôi dưỡng, giáo dục là nhằm mục đích giúp con chưa thành niên phát triển tốt cả về tinh thần lẫn thể chất. Nguyên đơn có đủ điều kiện nuôi con và thực tế đang trực tiếp nuôi con chung. Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của con chung, theo khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu Hà Quốc Đ, sinh ngày 06/4/2018 cho bà Cà Ư trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Trong quá trình nuôi con nếu gặp khó khăn bà Ư có quyền làm đơn yêu cầu cấp dưỡng nuôi con hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con để đảm bảo quyền lợi cho con chung.
[4] Về tài sản chung, nợ chung: Bà Cà Ư khai không có nên HĐXX không xét.
[5] Về án phí: Bà Cà Ư được miễn án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về hôn nhân: Chấp nhận cho bà Cà Ư được ly hôn với ông Ha D.
2. Về con chung: Giao con chung Hà Quốc Đ, sinh ngày 06/4/2018 cho bà Cà Ư trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Bà Cà Ư không yêu cầu ông Ha D cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn vì quyền lợi của con, các bên có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con; người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con; không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Cà Ư khai không có nên HĐXX không xét.
4. Về án phí: Bà Cà Ư được miễn án phí theo quy định pháp luật.
Hoàn lại cho bà Cà Ư 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2021/0005799 ngày 14 tháng 12 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Khánh Vĩnh.
Quyền kháng cáo: Bà Cà Ư, ông Ha D có quyền kháng cáo bản án yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án về ly hôn số 04/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 04/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Khánh Vĩnh - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 13/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về