Bản án về ly hôn số 04/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ NINH – TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 04/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/02/2022 VỀ LY HÔN

Hôm nay, ngày 18/02/2022 tại trụ sở TAND huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ, TAND huyện Phù Ninh mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án Dân sự thụ lý số 145/2021/TLST- HNGĐ ngày 07/10/2021 về “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2022/QĐXX-ST ngày 06/01/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2022/QĐST ngày 21/01/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1982.

Địa chỉ: Khu 5, xã P, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Hôm nay, vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

Bị đơn: Anh Lê Ngọc T, sinh năm 1979.

Địa chỉ: Khu 5, xã P, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Hôm nay, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn và tại bản tự khai chị Nguyễn Thị H trình bày: Chị và anh Lê Ngọc T tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 05/11/1999 tại Ủy ban nhân dân xã Bình Bộ (nay là xã Bình Phú), huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Sau khi cưới hai vợ chồng ở chung với gia đình nhà chồng tại Khu 5, xã P, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ (nhà, đất là của bố mẹ chồng đến năm 2013 thì sang tên cho vợ chồng chị). Quá trình chung sống tình cảm vợ chồng ban đầu hòa thuận hạnh phúc, đến tháng 02/2020 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Tuấn chơi bời cờ bạc, có quan hệ với người phụ nữ khác về đánh đập vợ con, không quan tâm đến gia đình. Hiện vợ chồng đã sống ly thân và không còn quan hệ về mặt tình cảm. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng không còn nên xin được ly hôn anh Lê Ngọc T.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Lê Thị Minh Hòa, sinh ngày 01/3/2001 và Lê Đức Thuận, sinh ngày 21/02/2003. Hiện các con đều đã thành niên nên chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Không đề nghị Tòa án giải quyết. Về nợ chung, công sức: Không có.

Phía bị đơn là anh Lê Ngọc T: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để anh Tuấn thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, nhưng anh Tuấn đều không có mặt nên không có lời khai.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Chị Nguyễn Thị H có yêu cầu xin ly hôn với anh Lê Ngọc T nên đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của BLTTDS. Bị đơn có hộ khẩu thường trú tại khu 5, xã P, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ nên căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 BLTTDS vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện Phù Ninh.

- Tại phiên tòa hôm nay: Chị Nguyễn Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt và đã có quan điểm thể hiện tại Bản tự khai; Anh Lê Ngọc T đã được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa bằng phương thức niêm yết công khai nhưng vẫn vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do nên căn cứ khoản 2 Điều 227 và Điều 228 BLTTDS Tòa án vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục vắng mặt đối với chị Hiệp và anh Tuấn.

[2] Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Lê Ngọc T kết hôn với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Bình Bộ (nay là xã Bình Phú), huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ phù hợp với Luật hôn nhân gia đình Việt Nam. Theo chị Hiệp trình bày thì vợ chồng mâu thuẫn là do anh Tuấn chơi bời cờ bạc, có quan hệ với người phụ nữ khác về đánh đập vợ con, không quan tâm đến gia đình. Hiện vợ chồng đã sống ly thân, không quan tâm gì đến nhau và không còn quan hệ về mặt tình cảm.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng đối với anh Tuấn để anh Tuấn biết và thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình nhưng anh Tuấn không có mặt tại Tòa án để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Tòa án cũng đã tiến hành xác minh tại địa phương và được cung cấp: do nợ nần nên anh Tuấn đã đi nơi khác làm ăn từ tháng 8/2021 và hiện không biết địa chỉ cụ thể của anh Tuấn ở đâu nên thời gian vừa qua không thể thực hiện được việc tống đạt trực tiếp các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh Tuấn. Đồng thời Tòa án cũng đã trực tiếp đến nhà anh Tuấn để làm việc nhưng do anh Tuấn không có mặt tại nhà nên không tiến hành làm việc được và cũng không tống đạt được các văn bản tố tụng cho anh Tuấn. Các con của anh Tuấn cũng không nhận thay vì cho rằng đây là việc riêng của bố mẹ. Hiện bố mẹ anh Tuấn đều đã chết, các anh chị em của anh Tuấn đều đã có gia đình và ở riêng. Do không tống đạt được cho anh Tuấn các văn bản tố tụng nên Toµ ¸n ®· tiÕn hµnh niªm yÕt c¸c v¨n b¶n này theo quy định của pháp luật để làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa hôm nay mặc dù chị Hiệp vắng mặt nhưng đã có quan điểm thể hiện tại Bản tự khai là đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn đối với anh Tuấn do hiện nay tình cảm vợ chồng không còn. Như vậy, có thể khẳng định mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Hiệp và anh Tuấn đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, cần xử cho chị Hiệp được ly hôn với anh Tuấn là phù hợp với quy định tại khoản 1 điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

- Về con chung: Chị Nguyễn Thị H xác nhận vợ chồng có hai con chung là Lê Thị Minh Hòa, sinh ngày 01/3/2001 và Lê Đức Thuận, sinh ngày 21/02/2003. Hiện các con đều đã thành niên nên chị không đề nghị Tòa án giải quyết vì vậy Hội đồng xét xử không đặt ra vấn đề giải quyết.

- Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị H không đề nghị Tòa án giải quyết nªn Hội đồng xét xử không đặt ra vấn đề giải quyết. Nếu sau này chị Hiệp và anh Tuấn đề nghị giải quyết về tài sản chung thì sẽ được xem xét giải quyết bằng vụ án khác.

- Về nợ chung, công sức: Chị Nguyễn Thị H x¸c nhận vî chång kh«ng cã nªn Hội đồng xét xử không đặt ra vấn đề giải quyết. Nếu sau này anh Tuấn đề nghị giải quyết về nợ chung và công sức thì sẽ được xem xét giải quyết bằng vụ án khác nếu có căn cứ.

[3] Tại phiên tòa hôm nay đại diện VKS nhân dân huyện Phù Ninh có quan điểm: Vụ án thụ lý đúng quy định của pháp luật. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay tuân thủ đúng các quy định của bộ luật tố tụng dân sự.

hôn.

quyết.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Đề nghị HĐXX xử cho chị Nguyễn Thị H và anh Lê Ngọc T được ly - Về con chung, tài sản chung, nợ chung và công sức: Không xem xét giải

[4] Về án phí: Chị Hiệp phải chịu tiền án phí Hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật.

[5] Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý vả sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Xử: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị H và anh Lê Ngọc T.

Về con chung, tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số AA/2020/.001210 ngày 06/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ. Chị Hiệp đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Chị Nguyễn Thị H và anh Lê Ngọc T vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết công khai để đề nghị xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 04/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:04/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Ninh - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về