Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 29/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THAnh S, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 29/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/07/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 26 tháng 7 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện ThAnh S, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 84/2022/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2022 về việc: “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 11 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Đ L, sinh năm 1992 ĐKNKTT: Khu 13, xã Cự Thắng, huyện ThAnh S, tỉnh Phú Thọ Chỗ ở hiện nay: Khu 4, xã Tất Thắng, huyện ThAnh S, tỉnh Phú Thọ Bị đơn: Anh T S, sinh năm 1992 Địa chỉ: Khu 13, xã Cự Thắng, huyện ThAnh S, tỉnh Phú Thọ (Các đương sự đều có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, quá trình làm việc tại Tòa án và tại phiên tòa, nguyên đơn – chị Đ L trình bày:

VÒ quan hôn nhân: Chị Đ L và anh T S có sự tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND xã Cự Thắng, huyện ThAnh S, tỉnh Phú Thọ vào năm 2013. Sau khi kết hôn chị L và Anh S về chung sống cùng gia đình Anh S tại khu 13, xã Cự Thắng, huyện ThAnh S. Thời gian đầu vợ chồng anh chị chung sống hạnh phúc, đến năm 2016 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, không tin tưởng nhau. Vợ chồng đã ly thân với nhau từ tháng 7/2021 đến nay không ai còn quan tâm đến nhau nữa. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa nên chị L làm đơn xin ly hôn Anh S.

Về con chung: Chị Đ L xác nhận vợ chồng có 01 con chung là cháu Trần Anh Duy, sinh ngày 10/9/2014, hiện nay cháu Duy đang sống cùng Anh S và ông bà nội. Khi ly hôn, chị L xin được nuôi cháu Duy và yêu cầu Anh S cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị L số tiền 2.000.000đồng/tháng. Hiện nay chị L đang làm quản lý của Siêu thị điện máy Media mart tại thị trấn ThAnh S, có thu nhập bình quân hàng tháng khoảng 8.000.000đ đến 9.000.000đ. chị L hiện đang sống cùng mẹ đẻ của chị tại Khu 4, xã Tất Thắng, chị đi làm sáng đi chiều về, chị L khẳng định có đủ điều kiện để nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp và tư trang riêng: Chị Đ L khẳng định vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Phía bị đơn, anh T S trình bày:

Về quan hôn nhân: Anh S thừa nhận về điều kiện, nơi đăng ký kết hôn, thời gian kết hôn và mâu thuẫn vợ chồng như chị L trình bày là đúng. Anh chị đã có thời gian sống ly thân nên không còn tình cảm gì với nhau nữa. Nay chị L xin ly hôn Anh S hoàn toàn nhất trí.

Về con chung: Anh T S xác nhận vợ chồng có 01 con chung là cháu Trần Anh Duy, sinh ngày 10/9/2014, hiện nay cháu Duy đang sống cùng Anh S và ông bà nội. Khi ly hôn, Anh S xin được nuôi cháu Duy và không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện nay Anh S đang làm nghề lái xe thu nhập bình quân hàng tháng khoảng 15.000.000đồng. Anh S làm gần nhà sáng đi chiều về nên có thời gian chăm sóc con. Còn nếu chị L được nuôi con thì Anh S chấp nhận cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị L 2.000.000đ/ 1 tháng.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp và tư trang riêng: Anh T S khẳng định vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát:

Về việc tuân theo pháp luật: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán, thư ký đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật, không có vi phạm gì. Các đương sự: Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị L và Anh S. Về con chung: Giao cho chị Đ L được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con chung là cháu Trần Anh Duy, sinh ngày 10/9/2014 đến khi cháu Duy thành niên. Anh S có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị L số tiền 2.000.000đồng/tháng kể từ tháng 8/2022 đến khi cháu Duy thành niên.

Về án phí: chị L, Anh S phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm;

Anh S phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Đ L khởi kiện yêu cầu Tòa án cho ly hôn anh T S, đây là tranh chấp về Hôn nhân gia đình theo Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Cả chị L và Anh S đều có nơi ĐKNKTT hiện nay tại huyện ThAnh S, vì vậy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện ThAnh S theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đ L và anh T S có sự tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND xã Cự Thắng vào năm 2013. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Về tình cảm vợ chồng: Cả chị L và Anh S đều thừa nhận sau khi kết hôn chị L và Anh S về chung sống cùng gia đình Anh S tại khu 13, xã Cự Thắng, huyện ThAnh S. Thời gian đầu vợ chồng anh chị chung sống hạnh phúc, đến năm 2016 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, không tin tưởng nhau. Vợ chồng đã ly thân với nhau từ tháng 7/2021 đến nay không ai còn quan tâm đến nhau nữa.Hiện nay cả chị L và Anh S đều khẳng định vợ chồng đã không còn tình cảm. Lời trình bày của các đương sự hoàn toàn phù hợp với kết quả xác minh tại địa phương. HĐXX thấy rằng mâu thuẫn của chị L và Anh S đã trầm trọng không có khả năng khắc phục, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị L và Anh S là phù hợp Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Chị Đ L và anh T S thống nhất xác nhận vợ chồng có 01 con chung là cháu Trần Anh Duy, sinh ngày 10/9/2014, hiện nay cháu Duy đang sống cùng Anh S và ông bà nội. Khi ly hôn cả chị L và Anh S đều xin được nuôi cháu Duy.

HĐXX thấy rằng nguyện vọng xin được nuôi con của cả hai bên đều chính đáng. Xong xét về điều kiện chăm sóc và nuôi dạy con chung thấy rằng: chị L và Anh S đều có đủ điều kiện để chăm sóc và nuôi dạy con chung. Quá trình làm việc tại Tòa án cả hai bên đều chứng minh được công việc và thu nhập của mình. Hiện nay chị L đang làm quản lý của Siêu thị điện máy Media mart tại thị trấn ThAnh S, có thu nhập bình quân hàng tháng khoảng 8.000.000đ đến 9.000.000đ, Anh S đang làm nghề lái xe thu nhập bình quân hàng tháng khoảng 15.000.000đồng. Do tính chất công việc không thể thường xuyên ở nhà cả chị L và Anh S đều đưa ra phương án chăm sóc con chung sau khi ly hôn là sống cùng bố mẹ đẻ để nhờ ông bà phụ giúp việc chăm sóc cháu Duy mỗi khi đi làm.

Xét về nguyện vọng của cháu Duy: Trong bản tự khai do cháu Duy tự viết và tại biên bản lấy lời khai tại khu 13, xã Cự Thắng cháu Duy đều thể hiện quan điểm mong muốn được ở với mẹ là chị Đ L.

Quá trình giải quyết vụ án bố mẹ đẻ của anh T S là ông Trần Xuân Mai cũng có đơn đề nghị Tòa án xem xét giao cháu Duy cho Anh S chăm sóc nuôi dưỡng vì từ nhỏ cháu Duy đã sống cùng ông bà nội, hiện nay cháu đang đi học ổn định tại xã Cự Thắng. Trong quá trình Anh S và chị L chưa ly thân thì ông bà cũng là người trực tiếp chăm sóc cháu Duy vì Anh S và chị L thường xuyên đi làm. Hiện nay ông bà đều còn khỏe, gia đình đủ điều kiện kinh tế để chăm sóc cháu. HĐXX thấy rằng: Việc ông bà cùng bố mẹ chăm sóc giáo dục các cháu là phù hợp với xu hướng, hiện trạng thực tế của xã hội. Tuy nhiên trách nhiệm trực tiếp trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng con cái là của bố mẹ. Mục đích của việc cha mẹ xin được nuôi con chung cơ bản đều là nhằm mang lại những điều kiện tốt nhất để cho con phát triển. Hiện nay cháu Duy đã 8 tuổi, có nguyện vọng của cá nhân. Từ những phân tích trên, HĐXX thấy rằng: Cần giao cháu Duy cho chị L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp với các quy định của pháp luật.

Đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung: chị L yêu cầu Anh S có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị L số tiền 2.000.000đồng/tháng. Quan điểm của Anh S nếu chị L được nuôi con thì anh nhất trí cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị L số tiền 2.000.000đ/ tháng. HĐXX thấy rằng cần chấp nhận sự tự nguyện của Anh S là phù hợp.

[4] Về tài sản chung, về nợ chung, công sức đóng góp và tư trang riêng: Chị Đ L và anh T S đều khẳng định vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, HĐXX không xem xét giải quyết.

[5] Quan điểm đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên chấp nhận.

[6] Về án phí: chị L phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm; Anh S phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

[7] Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 51, Điều 55, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5, khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Đ L và anh T S.

2. Về con chung: Giao cho chị Đ L được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con chung là cháu Trần Anh Duy, sinh ngày 10/9/2014; Anh S có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị L số tiền 2.000.000đ (Hai triệu đồng) / 1 tháng kể từ tháng 8/2022 đến khi cháu Duy thành niên.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền qua lại thăm nom chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Đ L phải nộp 75.000đ (Bảy mươi lăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Xác nhận chị L đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2020/0006786 ngày 25/4/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện ThAnh S. Trả lại cho chị L 225.000đ (Hai trăm hai mươi lăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Anh T S phải nộp 75.000đ (Bảy mươi lăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí cấp dưỡng nuôi con chung.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

"Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 - luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự."

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 29/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:29/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về