Bản án về ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn số 27/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 27/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/07/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 26 tháng 7 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 47/2022/TLST - HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2022 về việc Ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 06 tháng 7 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 31/2022/QĐST - DS ngày 22 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị T T Hằng, sinh năm 1999.

HKTT: Xóm Đ, xã V, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Bị đơn: Anh Đ V G, sinh năm 1997.

HKTT: Xóm B, xã V, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

(Chị H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh G vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 21/02/2022, bản tự khai ngày 25/3/2022 và biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ tại Tòa án nguyên đơn chị T T Hằng trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh G có quen biết nhau rồi nảy sinh tình cảm chung sống với nhau như vợ chồng, có một người con chung. Sau đó đến năm 2019 Chị H và anh G mới làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã Vinh Tiền, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng với gia đình anh G tại xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn được một thời gian, sau đó vì công việc bận nên Chị H ở nhà bố mẹ đẻ tại xã Vinh Tiền, còn anh G ở với bố mẹ đẻ tại xã Võ Miếu, thỉnh thoảng vợ chồng mới gặp nhau. Vợ chồng chung sống hòa thuận được hơn một năm thì mâu thuẫn phát sinh, nguyên nhân chính là do vợ chồng không cùng quan điểm trong cách sống, trong làm ăn kinh tế nên có lời qua tiếng lại dẫn đến cãi nhau, xúc phạm nhau. Mặt khác anh G mải chơi bời không chăm lo đến gia đình, vợ chồng không tin tưởng vào tình cảm của nhau, bản thân chị với mẹ chồng cũng không được êm ấm, tôn trọng nhau. Khi mâu thuẫn vợ chồng xẩy ra thì bố mẹ hai bên gia đình có biết, có khuyên bảo, nhưng mâu thuẫn vợ chồng vẫn trầm trọng. Chính vì cuộc sống gia đình căng thẳng nên vợ chồng ly thân nhiều năm nay mỗi người một nơi, không ai còn quan tâm đến nhau, khi làm đơn ly hôn chị cũng có gọi điện thoại cho anh G nhưng anh bảo đi làm ăn không về. Nay Chị H xác định tình cảm với anh G không còn, hôn nhân không đem lại hạnh phúc nên chị đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Chị H trình bày vợ chồng có 01 con chung là cháu Đỗ Sơn Tùng, sinh ngày 04/02/2019, hiện nay con chung đang ở với Chị H từ khi vợ chồng sống ly thân. Ly hôn Chị H xin được trực tiếp nuôi con chung đến khi thành niên, chị tự nguyện không yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện nay Chị H đang làm nghề bán hàng có thu nhập từ 7 - 8 triệu/ 1 tháng, chị ở chung với bố mẹ đẻ tại xã Vinh Tiền, huyện Tân Sơn có nhà cửa kiên cố, rộng rãi.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp và tư trang riêng: Chị H trình bày vợ chồng không có, ly hôn chị không có đề nghị gì.

Phía bị đơn, anh Đ V G đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo qui định nhưng vẫn cố tình trốn tránh, không đến Tòa án. Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ tại nơi cư trú của bị đơn và thực hiện tống đạt các văn bản tố tụng thông qua mẹ đẻ anh G:

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã xác minh tại địa phương về tình trạng hôn nhân giữa Chị H với anh G, lấy lời khai của mẹ đẻ anh G. Theo kết quả xác minh ngày 17/6/2022 tại khu hành chính xã Võ Miếu xác định anh G có hộ khẩu thường trú tại xóm Bành, xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Tại biên bản lấy lời khai ngày 17/6/2022 của bà Hà Thị Cơ là mẹ đẻ anh G cũng xác định như sau: Năm 2019 con trai bà là anh G xây dựng gia đình, kết hôn với chị T T Hằng, hai bên có được tự do tìm hiểu tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã Vinh Tiền, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Sau khi kết hôn vợ chồng anh G, Chị H đã về sống chung với gia đình nhà bà tại xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn được khoảng một thời gian dài thì vợ chồng anh chị lại chuyển về nhà bố mẹ đẻ Chị H tại xã Vinh Tiền, huyện Tân Sơn để ở tiện cho việc đi làm, vợ chồng đi lại cả hai nơi. Thực tế trong cuộc sống mâu thuẫn vợ chồng phát sinh, nguyên nhân chủ yếu do vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không tôn trọng nhau, thường xuyên xẩy ra to tiếng, cãi nhau, Chị H đi làm công nhân, anh G không tin tưởng vào vợ nên vợ chồng có ghen tuông chuyện tình cảm. Mặt khác theo bà Cơ thì con trai bà hiền lành, tử tế, con dâu thì đáo để, sống không được lòng gia đình nhà chồng. Sau khi mâu thuẫn xẩy ra bố mẹ hai bên có khuyên bảo rất nhiều để vợ chồng anh G, Chị H bỏ qua mâu thuẫn về chung sống với nhau, nuôi dạy con chung nhưng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không tự khắc phục được. anh G và Chị H sống ly thân một thời gian dài mỗi người một nơi, ai cũng có cuộc sống riêng không quan tâm đến nhau. Mặc dù gia đình và anh G đã lên nhà đón mẹ con Chị H về nhưng Chị H kiên quyết không về chung sống với anh G nữa. Thực tế vợ chồng anh G, Chị H không có hạnh phúc, không ăn ở với nhau từ rất lâu. Quan điểm gia đình bà Cơ mong muốn các con về đoàn tụ gia đình, nếu các con xác định không còn tình cảm nữa thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về con chung: Bà Cơ cũng xác định vợ chồng anh G, Chị H có 01 con chung là cháu Đỗ Sơn Tùng, sinh ngày 04/02/2019, hiện cháu đang ở với Chị H tại xã Vinh Tiền, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ từ khi vợ chồng ly thân cho đến nay. Quan điểm của bà Cơ con chung do các cháu tự quyết định, bản thân anh G đi làm nhưng không có chu cấp hoặc thăm nom gì đến con chung. Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp và tư trang riêng: Theo bà Cơ thì vợ chồng anh chị sống phụ thuộc gia đình nội ngoại nên không tạo lập được tài sản chung gì, nợ nần không có. Về việc vắng mặt của anh G: Bà Cơ cho Tòa án biết anh G mới đi làm thuê ở Hà Nội từ khoảng cuối tháng 3 năm 2022, anh làm công việc gì, địa chỉ cụ thể thế nào bà không biết, anh G thường xuyên điện thoại về cho gia đình hỏi thăm sức khỏe, thỉnh thoảng anh có về nhà chơi xong lại đi làm ăn. Bà có nhận được thông báo về việc thụ lý vụ án, các văn bản tố tụng khác của Tòa án, bà có gọi điện trực tiếp thông báo đến anh G nói về việc Tòa án giải quyết ly hôn, anh G cũng có nói lại với bà: Việc ly hôn anh có biết, khi làm đơn Chị H cũng thông báo đến anh để anh thu xếp về giải quyết, tuy nhiên anh mới đi làm, công việc rất bận nên anh G không xin nghỉ được. anh G có nói với bà thực tế vợ chồng không ở với nhau thời gian dài, không còn tình cảm nữa, anh nhất trí ly hôn để giải thoát cho nhau, ổn định cuộc sống, con cái còn nhỏ cứ để Chị H nuôi dưỡng; tài sản, nợ nần các vấn đề khác vợ chồng không có gì. Anh đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn vắng mặt anh theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát:

Về việc tuân theo pháp luật: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật, không có vi phạm gì. Các đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt đề ngày 07/7/2022. Bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Áp dụng Điều 56, Điều 81, 82, 83 – Luật hôn nhân và gia đình 2014.

- Đề nghị HĐXX chấp nhận đơn khởi kiện: Xử cho Chị H được ly hôn anh Đ V G. Về con chung: Giao con chung là cháu Đỗ Sơn Tùng, sinh ngày 04/02/2019 cho Chị H được trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu Tùng thành niên. anh G không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng Chị H do Chị H không yêu cầu.Về tài sản chung, công nợ, công sức đóng góp: Không xem xét giải quyết vì Chị H không yêu cầu.Về án phí: Chị H phải chịu án phí theo quy định của Pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ngày 09/3/2022 chị T T Hằng nộp đơn khởi kiện về việc ly hôn, nuôi con chung với anh Đ V G, đây là tranh chấp Hôn nhân gia đình được Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về sự vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn chị T T Hằng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 07/7/2022, bị đơn anh Đ V G được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên đây là vụ án không thể tiến hành hòa giải được, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt Chị H, anh G là phù hợp quy định tại khoản 1+3 Điều 228; Điều 238 - Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh G có đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình, anh chị đã thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn năm 2019 tại UBND xã Vinh Tiền, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp, nhưng khi chung sống cả hai không cùng nhau vun đắp xây dựng mối quan hệ hôn nhân của mình bền vững, hạnh phúc. Quan hệ hôn nhân đó đã bị đổ vỡ, nguyên nhân do cả hai không biết trân trọng cuộc sống hôn nhân của mình và cho rằng tính tình không hợp nhau, quan điểm sống khác nhau dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau, xúc phạm, không tôn trọng, tin tưởng nhau.Vợ chồng đã sống ly thân một thời gian dài, không cùng thực hiện quyền và nghĩa vụ vợ chồng với nhau.

Về mâu thuẫn vợ chồng: Kết quả thu thập chứng cứ của Tòa án và lời trình bày của mẹ anh G – Bà Hà Thị Cơ (BL 40) phù hợp với trình bày của Chị H về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn vợ chồng, đủ cơ sở chứng minh: Mâu thuẫn vợ chồng Chị H, anh G xảy ra đã lâu, cuộc sống chung của vợ chồng đã trầm trọng, thực tế cuộc hôn nhân không còn tồn tại, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn anh G của Chị H là có căn cứ qui định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về con chung: Xét yêu cầu nuôi con chung của Chị H là chính đáng bởi lẽ: Từ khi Chị H và anh G sống ly thân con chung của anh chị vẫn do Chị H chăm sóc nuôi dưỡng, cháu Tùng còn nhỏ nên rất cần sự quan tâm của người mẹ. Bản thân anh G không quan tâm hoặc chu cấp gì để Chị H nuôi con, điều đó thể hiện anh chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm với con chung. Mặt khác anh G thường xuyên đi làm ăn xa, chỗ ở không ổn định. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho cháu Tùng cần giao con chung của anh chị là cháu Đỗ Sơn Tùng, sinh ngày 04/02/2019, cho Chị H tiếp tục nuôi dưỡng kể từ tháng 7/2022 cho đến khi cháu Tùng thành niên, tự lực được. Chị H không yêu cầu anh G phải cấp dưỡng nuôi con chung. Hai bên đều có quyền và nghĩa vụ với con chung, không ai được ngăn cản.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Vì anh G vắng mặt không có quan điểm và Chị H xác định vợ chồng không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[3] Về án phí: Chị H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Các đương sự được quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 56, khoản 1+2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147, khoản 1+3 Điều 228, Điều 238; Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị T T Hằng được ly hôn anh Đ V G.

2. Về con chung: Giao cháu Đỗ Sơn Tùng, sinh ngày 04/02/2019 cho chị T T Hằng được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Tùng thành niên. Anh Đ V G không phải cấp dưỡng nuôi con chung do Chị H không yêu cầu.

Hai bên đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị T T Hằng phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Xác nhận Chị H đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số: AA/2020/0006737 ngày 11/3/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Nay chuyển thành án phí.

"Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 - Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự." 4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở UBND xã nơi các đương sự thường trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn số 27/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:27/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về