Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 190/2023/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 190/2023/HC-PT NGÀY 20/06/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 20 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 27/2023/TLPT-HC ngày 01 tháng 3 năm 2023 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.

Do Bản án hành chính sơ thẩm số 132/2022/HC-ST ngày 10 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2350/2023/QĐ-PT ngày 01 tháng 6 năm 2023 giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Ông Nguyễn H, sinh năm 1970; Địa chỉ: khối phố Đ, phường H1, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Lưu Thị L - Văn phòng luật sư L1 thuộc Đoàn luật sư tỉnh Quảng Nam; Địa chỉ: thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.

- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố T, tỉnh Quảng Nam.

Người đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Minh N - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp:

+ Ông Phạm Thế M - Trưởng phòng Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

+ Ông Phạm Văn Th - Giám đốc Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai T, tỉnh Quảng Nam. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Đình D - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường H1, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Cụ Nguyễn V (chết) Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cụ Nguyễn V:

+ Cụ Huỳnh Thị M1, sinh năm 1937. Vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Văn H2 (Nguyễn H2) sinh năm 1964. Có mặt.

+ Ông Nguyễn H, sinh năm 1970. Có mặt.

+ Ông Nguyễn V3, sinh năm 1975. Có mặt.

Cùng địa chỉ: khối phố Đ, phường H1, thành phố T, tỉnh Quảng Nam.

+ Bà Nguyễn Thị Thu H1, sinh năm 1974; Địa chỉ: khối phố TC, phường H1, thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Cụ Huỳnh Thị M1, sinh năm 1937. Vắng mặt.

3. Ông Nguyễn Văn H2 (Nguyễn H2), sinh năm 1964. Có mặt.

4. Bà Nguyễn Thị Kim T2, sinh năm 1964. Có mặt.

5. Ông Nguyễn Quang V3, sinh năm 1987. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

6. Bà Nguyễn Thị Bích T3, sinh năm 1992. Có mặt.

7. Bà Hồ Thị Hồng H2, sinh năm 1974. Có mặt.

8. Bà Nguyễn Hoài Hạ V2, sinh năm 2000. Có mặt.

9. Ông Nguyễn Quốc V3, sinh năm 2006. Vắng mặt.

Cùng địa chỉ: khối phố Đ, phường H1, thành phố T, tỉnh Quảng Nam.

Người kháng cáo: người khởi kiện là ông Nguyễn H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cụ Huỳnh Thị M1, ông Nguyễn V3, bà Hồ Thị Hồng H2, chị Nguyễn Hoài Hạ V2, anh Nguyễn Quốc V3, bà Nguyễn Thị Thu H1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Người khởi kiện - ông Nguyễn H trình bày:

Cha mẹ ông là cụ Nguyễn V và cụ Huỳnh Thị M1 có tạo lập được nhà cửa và khoảng 5.000m2 đất tại khối phố Đ, phường H1, thành phố T. Để các con có điều kiện làm nhà và sử dụng trồng trọt nên cha mẹ ông đã phân chia cho con. Cha mẹ đã cho ông Nguyễn H2 - là anh lớn nhất trong nhà một phần đất khoảng trên 2.500m2 thuộc thửa đất số 11, tờ bản đồ số 14, ông H2 đã làm nhà ở và có ranh giới ổn định. Một nửa diện tích thửa đất còn lại khoảng 2.500m2 thì cha mẹ đã cho vợ chồng ông sử dụng, ông đã làm nhà và trồng cây lâu năm trên 20 năm tuổi. Giữa vườn ông và vườn ông Nguyễn H2 đều có ranh giới rõ ràng, ổn định.

Năm 2019, ông xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì mới phát hiện một phần thửa đất của mình với diện tích khoảng 1.350m2 đã cấp giấy chứng nhận cho ông H2. Do giải quyết trong gia đình không được nên ông gởi đơn đến Ủy ban nhân dân (UBND) phường để được hòa giải. Cha ông cũng đã trình bày trong buổi hòa giải là cha mẹ chỉ cho ông H2 một phần diện tích thửa đất, còn phần diện tích đất cha mẹ cho ông mà ông H2 đăng ký cấp giấy chứng nhận là sai.

UBND phường H1 cũng thừa nhận trong buổi hòa giải là ông Nguyễn H2 hiện đang sử dụng đất trong khuôn viên khép kín, có trồng nhiều cây có tuổi trên 20 năm, hiện tại vị trí nhà ở ông H2 vẫn không thay đổi, theo hồ sơ 64/CP thì vị trí nhà ông H2 xây dựng trên thửa đất màu, còn thửa đất thổ cư nằm vị trí khác, cơ quan Nhà nước đã cấp nhầm vị trí đất của ông H2 và đã cấp nhầm một phần diện tích đất của ông H cho ông H2, còn phần diện tích đất có ngôi nhà của ông H2 thì lại không đo đạc để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, việc cấp giấy chứng nhận cho ông H2 là sai vị trí đất, trong gia đình ông cũng như các thành viên tham gia hòa giải thuyết phục ông H2 thỏa thuận cho hợp lý nhưng ông H2 không chấp nhận.

Do đó, ông Nguyễn H khởi kiện yêu cầu Tòa án:

Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số G247405 do UBND thành phố T cấp ngày 08/4/1996 cho hộ ông Nguyễn H2 đối với thửa đất số 11, tờ bản đồ số 14, tại khối phố Đ, phường H1, thành phố T, tỉnh Quảng Nam.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện - UBND thành phố T trình bày:

Theo hồ sơ kê khai Nghị định 64/CP ông Nguyễn H2 kê khai tại thửa đất số 11, tờ bản đồ số 14, diện tích 2.710m2 đất thổ cư và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 08/4/1996. Ông Nguyễn H khởi kiện yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số G247405 do UBND thành phố T cấp ngày 08/4/1996 cho hộ ông Nguyễn H2 đối với thửa đất số 11, tờ bản đồ số 14, tại khối phố Đ, phường H1, thành phố T, tỉnh Quảng Nam, đề nghị Tòa án xem xét theo quy định pháp luật.

Tại các văn bản có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày Bà Hồ Thị Hồng H2 và bà Nguyễn Hoài Hạ V2 trình bày: Thống nhất với yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn H.

Ông Nguyễn Văn H2 trình bày: Đất do ông kê khai đăng ký và đóng thuế cho nhà nước, đã được cấp giấy chứng nhận cho ông theo đúng quy định pháp luật. Ông Nguyễn H khởi kiện hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông là không có căn cứ.

Bà Nguyễn Thị Kim T2 và bà Nguyễn Thị Bích T3 trình bày: Thống nhất với lời trình bày của ông Nguyễn Văn H2, không thống nhất với yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn H.

Ông Nguyễn V3 trình bày: Cha ông đã cho đất cho ông Nguyễn H và ông Nguyễn H2. Ông không có ý kiến gì, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định pháp luật.

Với nội dung vụ án như trên, Bản án hành chính sơ thẩm số 132/2022/HC-ST ngày 10/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã quyết định:

Căn cứ Điều 3, Điều 116, khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 348 Luật tố tụng hành chính năm 2015; Luật đất đai năm 1993; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn H về việc: Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số G247405 do UBND thành phố T cấp ngày 08/4/1996 cho hộ ông Nguyễn H2 (Nguyễn Văn H2) đối với thửa đất số 11, tờ bản đồ số 14, tại khối phố Đ, phường H1, thành phố T, tỉnh Quảng Nam.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, án phí và quyền kháng cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm: Ngày 21/11/2022, người khởi kiện – ông Nguyễn H và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về phía người khởi kiện gồm: cụ Huỳnh Thị M1, bà Nguyễn Thị Thu H1, ông Nguyễn V3, bà Hồ Thị Hồng H2, chị Nguyễn Hoài Hạ V2, anh Nguyễn Quốc V1 kháng cáo đề nghị sửa bản án hành chính sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H: Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số G247405 do UBND thành phố T cấp ngày 08/4/1996 cho hộ ông Nguyễn H2 (Nguyễn Văn H2) đối với thửa đất số 11, tờ bản đồ số 14, tại khối phố Đ, phường H1, thành phố T.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Người khởi kiện không rút đơn khởi kiện; Người khởi kiện và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về phía người khởi kiện không rút đơn kháng cáo mà vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo như trên. Luật sư bảo vệ quyền lợi cho người khởi kiện đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện; Người bị kiện đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của người khởi kiện; Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của người khởi kiện và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về phía người khởi kiện. Giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 132/2022/HC-ST ngày 10/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam .

Sau khi nghe: Người kháng cáo trình bày nội dung kháng cáo; ý kiến của các bên liên quan đến nội dung kháng cáo và tranh luận tại phiên tòa; Ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm và quan điểm của Viện kiểm sát về giải quyết vụ án. Sau khi thảo luận và nghị án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Người kháng cáo có mặt tại phiên tòa; Người bị kiện, người bảo vệ quyền và lợi ích có đơn xin xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 225 Luật tố tụng hành chính.

[2]. Xét kháng cáo của người khởi kiện – ông Nguyễn H và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về phía người khởi kiện gồm: cụ Huỳnh Thị M1, bà Nguyễn Thị Thu H1, ông Nguyễn V3, bà Hồ Thị Hồng H2, chị Nguyễn Hoài Hạ V2, anh Nguyễn Quốc V1 đề nghị sửa bản án hành chính sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H: Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số G247405 do UBND thành phố T cấp ngày 08/4/1996 cho hộ ông Nguyễn H2 (Nguyễn Văn H2) đối với thửa đất số 11, tờ bản đồ số 14, tại khối phố Đ, phường H1, thành phố T thì thấy:

[2.1]. Ông Nguyễn H cho rằng, ông được cha là cụ Nguyễn V cho một phần diện tích đất tại thửa đất số 11, tờ bản đồ số 14, diện tích khoảng 2.500m2 (BL 02). Năm 2019, ông xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì mới phát hiện một phần thửa đất của mình với diện tích khoảng 1.350m2 đã được UBND thành phố T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn H2.

Ông H chỉ dựa vào Biên bản hòa giải ngày 27/11/2019 (BL 03) có trình bày của cụ Nguyễn V cho rằng việc cụ cho đất ông H là thực tế, tuy nhiên, tại Biên bản này thành phần tham dự không có cụ Nguyễn V và không có chữ ký của cụ Nguyễn V; theo hồ sơ Đăng ký đất đai qua các thời kỳ (bl 50-69) của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai T cung cấp thì cụ Nguyễn V không đăng ký, kê khai đối với thửa đất số 11, tờ bản đồ số 14; theo hồ sơ 60CP và các số mục kê năm 2007, năm 2015 thì cụ Nguyễn V đăng ký thửa đất số 138, tờ bản đồ số 116 (sau này là thửa 117, tờ bản đồ số 28) diện tích 1170,8m2).

[2.2]. Tại Biên bản xác minh ngày 31/3/2021 (BL 64) thể hiện: Thửa đất số 11, tờ bản đồ số 14 không có hồ sơ địa chính theo Chỉ thị 299/TTg; theo hồ sơ Nghị định 64/CP (được UBND xã Tam Đàn phê duyệt năm 1999) thì ông Nguyễn H2 (Nguyễn Văn H2) kê khai, đăng ký diện tích 2.710m2 đất thổ cư tại thửa số 11, tờ bản đồ số 14. Ngày 08/4/1996, ông Nguyễn H2 được UBND thị xã T (nay là thành phố T) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa số 11, tờ bản đồ số 14, diện tích 2.710m2 tại xã Tam Đàn (nay là phường H1), thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Ngày 17/11/2014, UBND thành phố T đính chính lại tên chủ sử dụng đất là hộ ông Nguyễn Văn H2.

[2.3]. Ông Nguyễn H không cung cấp được giấy tờ chứng minh việc tặng cho quyền sử dụng đất giữa cụ Nguyễn V và ông Nguyễn H. Thửa đất số 11, tờ bản đồ số 14, diện tích 2.710m2 tại xã Tam Đàn từ trước đến nay ông H2 là người đăng ký kê khai và nộp thuế đầy đủ, được thể hiện tại các Phiếu thu của Hợp tác xã Tam An 4 từ năm 1984 (BL 100 - 105), các Biên lai thu thuế sử dụng đất từ năm 1995 (BL 108 - 123), ông H2 cho rằng: “trong quá trình sử dụng đất vì là quan hệ cha con, anh em nên ông mới để cha ông là cụ V sử dụng một phần của thửa đất số 11, tờ bản đồ số 14 để trồng cây, sau này ông H tiếp tục mượn phần đất này để sử dụng trồng cây nhưng thực tế là đất của ông kê khai đăng ký và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng quy định pháp luật” là đúng với thực tế quản lý, kê khai và sử dụng đất của ông H2 nên Bản án sơ thẩm bác yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND thành phố T cấp cho hộ ông Nguyễn Văn H2 đối với thửa 11, tờ bản đồ số 14 tại khối phố Đ, phường Hoà Thuận là có căn cứ.

[3]. Sau khi xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về phía người khởi kiện gồm: cụ Huỳnh Thị M1, bà Nguyễn Thị Thu H1, ông Nguyễn V3, bà Hồ Thị Hồng H2, chị Nguyễn Hoài Hạ V2, anh Nguyễn Quốc V1 kháng cáo yêu cầu được xem xét lại các Quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm nhưng không có chứng cứ nào mới nên Hội đồng xét xử phúc thẩm bác đơn kháng cáo của người khởi kiện và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về phía người khởi kiện. Giữ nguyên Quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 132/2022/HC-ST ngày 10/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.

[4]. Án phí hành chính phúc thẩm: Kháng cáo của ông Nguyễn H, cụ Huỳnh Thị M1, bà Nguyễn Thị Thu H1, ông Nguyễn V3, bà Hồ Thị Hồng H2, chị Nguyễn Hoài Hạ V2, anh Nguyễn Quốc V1 không được chấp nhận nên ông Nguyễn H, cụ Huỳnh Thị M1, bà Nguyễn Thị Thu H1, ông Nguyễn V3, bà Hồ Thị Hồng H2, chị Nguyễn Hoài Hạ V2, anh Nguyễn Quốc V1 mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 34 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Từ những nhận định trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính.

Bác kháng cáo của ông Nguyễn H và kháng cáo của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về phía người khởi kiện gồm: cụ Huỳnh Thị M1, bà Nguyễn Thị Thu H1, ông Nguyễn V3, bà Hồ Thị Hồng H2, chị Nguyễn Hoài Hạ V2, anh Nguyễn Quốc V1. Giữ nguyên Quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 132/2022/HC-ST ngày 10/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.

1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn H về việc: Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số G247405 do UBND thành phố T cấp ngày 08/4/1996 cho hộ ông Nguyễn H2 (Nguyễn Văn H2) đối với thửa đất số 11, tờ bản đồ số 14, tại khối phố Đ, phường H1, thành phố T, tỉnh Quảng Nam.

2. Án phí phúc thẩm: Áp dụng khoản 1 Điều 34 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

- Ông Nguyễn H, cụ Huỳnh Thị M1, bà Nguyễn Thị Thu H1, ông Nguyễn V3, bà Hồ Thị Hồng H2, chị Nguyễn Hoài Hạ V2 và anh Nguyễn Quốc V1 mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính phúc thẩm nhưng được trừ vào số tiền tam ứng án phí phúc thẩm đã nộp tại các Biên lai số 000281, 000282, 000284, 000285, 000286, 000288 và 000289 cùng ngày 12/12/2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam (các đương sự đã nộp đủ).

3. Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ; Án phí hành chính sơ thẩm được thực hiện theo Quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 132/2022/HC-ST ngày 10/11/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

75
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 190/2023/HC-PT

Số hiệu:190/2023/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 20/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về