Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 11/2022/HC-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 11/2022/HC-ST NGÀY 21/03/2022 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Trong ngày 21 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 91/2019/TLST- HC, ngày 21 tháng 8 năm 2019, về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2021/QĐXXST-HC ngày 02 tháng 6 năm 2021; Thông báo thời gian tiếp tục phiên tòa số 25/TABT-HC ngày 28/02/2022, giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Ông Mai Thanh Tr, sinh năm: 1960;

Địa chỉ: Số Y , đường N, phường H, thành phố P, tỉnh B.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Mai Thanh Tr:

Bà Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1968; Có mặt.

Địa chỉ: Số 109/2, đường N, Khu phố 1, phường P, thành phố P, tỉnh B. Giấy ủy quyền ngày 01/9/2020.

- Người bị kiện: Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Bình Thuận.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Minh Q - Giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hồ Thiện H - Phó Giám đốcVăn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Bình Thuận. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ủy ban nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận;

Có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Ủy ban nhân dân thành phố Phan Thiết:Ông Võ Văn Phúc - Phó Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Phan Thiết.

2. Bà Lê Thị H, sinh năm: 1960;

Địa chỉ: Số 193, đường N, phường H, thành phố P, tỉnh B.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Lê Thị Hồng:

Bà Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1968. Có mặt.

Địa chỉ: Số 109/2, đường Ni, Khu phố 1, phường P, thành phố Pt, tỉnh B. Giấy ủy quyền ngày 01/9/2020.

3. Ủy ban nhân dân xã Thiện Nghiệp, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.

Người đại diện thep pháp luật: Ông Đỗ Ngọc Hòa - Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 12/3/2019, đơn khởi kiện bổ sung đề ngày 30/7/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, người khởi kiện là ông Mai Thanh Tr, người đại diện hợp pháp của ông Triết là bà Nguyễn Thị Kim L trình bày:

Trong các năm 2003 và năm 2004,vợ chồng ông Mai Thanh Tr, bà Lê Thị Hồng đã nhận chuyển nhượng của vợ, chồng ông Bùi Hùng, bà Lê Thị Chút, ông Võ Văn Tân, ông Phạm Chí Thanh và bà Võ Thị Hường các thửa đất có tổng diện tích là 48.984m2, tọa lạc tại thôn Thiện An, xã Thiện Nghiệp, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, vợ chồng ông Triết, bà Hồng đã lập hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất nêu trên tại Ủy ban nhân dân xã Thiện Nghiệp.

Tuy nhiên, ngày 29/10/2018, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai Phan Thiết ban hành Công văn số 1305/CNVPĐKĐĐPT, với nội dung từ chối cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông Triết với lý do: Trước đây, khi thực hiện dự án sân bay Phan Thiết, vợ chồng ông Triết đã bị thu hồi thửa đất có diện tích là 68.391,3m2, chính vì vậy tổng diện tích đất bị thu hồi và diện tích đất đề nghị cấp giấy bị vượt quá hạn mức giao đất theo quy định tại Khoản 2 Điều 129 Luật Đất đai năm 2013 là 17.375m2.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai Phan Thiết tiếp tục có Công văn số 01/CNVPĐKĐĐPT ngày 08/01/2020, thay thế Công văn số 1305/CNVPĐKĐĐPT nhưng vẫn giữ nguyên nội dung hoàn trả lại hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với lý do như trên.

Ông Nguyễn Minh Triết khẳng định, tại thời điểm lập hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất diện tích là 48.984m2, vợ chồng ông Triết, bà Hồng không còn quản lý, sử dụng bất kỳ diện tích đất nông nghiệp nào khác. Toàn bộ các diện tích đất nông nghiệp trước đây được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng và chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đều đã bị Nhà nước thu hồi để thực hiện các dự án. Như vậy, không có căn cứ để xác định phần diện tích đất 17.375m2 là vượt quá hạn mức giao đất.

Mặt khác, toàn bộ diện tích mà vợ chồng ông Triết đang đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là do vợ chồng ông nhận chuyển nhượng, nêncăn cứ theo quy định tại Khoản 8 Điều 129 Luật Đất đai, phần diện tích đất này không được tính vào hạn mức giao đất.

Chính vì vậy, ông Triết khởi kiện đề nghị Tòa án hủy Công văn số 1305/CNVPĐKĐĐPT ngày 29/10/2018 và Công văn số 01/CNVPĐKĐĐPT ngày 08/01/2020 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.

Theo Công văn số 2705/VPĐKĐĐ-ĐKCG, ngày 19/12/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, người bị kiện là Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Bình Thuận, người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện trình bày:

Vợ chồng ông Mai Thanh Tr và bà Lê Thị Hồng là người sử dụng đất nông nghiệp tại xã Thiện Nghiệp, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, với tổng diện tích là 117.375,3m2, trong đó diện tích đất đã bị thu hồi phục vụ cho dự án sân bay Phan Thiết là 68.391,3m2.

Ngày 04/10/2018, ông Triết nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu đối với phần diện tích đất còn lại là thửa đất số 94, tờ bản đồ số 37, diện tích 48.984m2, tọa lạc tại thôn Thiện An, xã Thiện Nghiệp, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, được Ủy ban nhân dân xã Thiện Nghiệp xác nhận là do vợchồng ông Triết nhận chuyển nhượng lại từ các hộ ông Bùi Hùng vào năm 2003, ông Võ Văn Tân, ông Phạm Chí Thành và bà Võ Thị Hường vào năm 2004.

Căn cứ quy định tại Khoản 2 Điều 129 Luật Đất đai, Điểm a Khoản 5 Điều 20 Nghị định 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ thì phần diện tích đất 68.391,3m2 đã bị Nhà nước thu hồi vẫn tính vào diện tích khi giao đất, nên không có căn cứ để công nhận đối với phần diện tích đất vượt quá hạn mức 10ha là 17.375m2.

Mặt khác, pháp luật đất đai hiện hành không quy định các trường hợp có đất bị thu hồi (có giấy chứng nhận hoặc không có giấy chứng nhận) thì không được tính vào hạn mức công nhận quyền sử dụng đất, theo hình thức giao đất đối với diện tích đất nông nghiệp còn lại khi đăng ký cấp giấy chứng nhận lần đầu. Chính vì vậy, việc hoàn trả hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hướng dẫn làm thủ tục để Nhà nước cho thuê đất, nêu tại Công văn số 1305/CNVPĐKĐĐPT ngày 29/10/2018 và Công văn số 01/CNVPĐKĐĐPT ngày 08/01/2020 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật, đề nghị Tòa án bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.

Theo Công văn số 2969/UBND-TH, ngày 24/4/2020, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân thành phố Phan Thiết, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trình bày:

Việc thẩm tra hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Mai Thanh Thiết và bà Lê Thị Hồng, sau đó ban hành các văn bản hoàn trả hồ sơ cho người đề nghị là do Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai Phan Thiết thực hiện, không liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cũng như trách nhiệm, quyền hạn trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước về đất đai của Ủy ban nhân dân thành phố Phan Thiết. Chính vì vậy, Ủy ban nhân dân thành phố Phan Thiết không có ý kiến, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lê Thị Hồng trình bày:

Bà Hồng thống nhất với ý kiến trình bày cũng như yêu cầu khởi kiện của ông Mai Thanh Tr, đề nghị Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Triết.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân xã Thiện Nghiệp, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận trình bày:

Việc hoàn trả hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ ông Mai Thanh Tr là thực hiện theo yêu cầu của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai Phan Thiết, nêu tại Công văn số 1305/CNVPĐKĐĐPT ngày 29/10/2018 và Công văn số 01/CNVPĐKĐĐPT ngày 08/01/2020.

Đối với hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Triết, Ủy ban nhân dân xã Thiện Nghiệp đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm, quyền hạn theo quy định của pháp luật. Hành vi hành chính và quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân xã đối với hồ sơ này không bị người khởi kiện là ông Mai Thanh Tr khiếu kiện nên chúng tôi không có ý kiến, đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Trình tự, thủ tục giải quyết vụ án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, những người tiến hành tố tụng; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng theo quy định định của pháp luật;

Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xác định việc ban hành Công văn số 1305/CNVPĐKĐĐPT ngày 29/10/2018 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, trả hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ ông Mai Thanh Tr, với lý do vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp là không đúng quy định của pháp luật đất đai, vì phần diện tích đất đã bị thu hồi không được tính vào hạn mức giao đất. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1, 2 và 9 Điều 3; Khoản 4 Điều 32; Điểm a Khoản 2 Điều 116; Điểm b Khoản 2 Điều 193 của Luật Tố tụng hành chính, xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Mai Thanh Tr.Hủy Công văn số 1305/CNVPĐKĐĐPT ngày 29/10/2018 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Buộc Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Bình Thuận, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Phan Thiết phải thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo đúng quy định của pháp luật.

Người bị kiện phải chịu án phí hành chính sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh tụng và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt người khởi kiện; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng có người đại diện theo ủy quyền và có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử theo Điều 158 Luật Tố tụng hành chính.

[2] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền: Ông Mai Thanh Tr khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Công văn số 1305/CNVPĐKĐĐPT ngày 29/10/2018 và Công văn số 01/CNVPĐKĐĐPT ngày 08/01/2020 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Đây là các văn bản do cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành, quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính về đất đai, được áp dụng một lần đối với một đối tượng cụ thể. Nên Tòa án xác định quan hệ tranh chấp là khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai, theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2, Khoản 11 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính.

[3] Về đối tượng khởi kiện: Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai Phan Thiết là đơn vị hạch toán phụ thuộc, thuộc cơ cấu, tổ chức của Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Bình Thuận và không có tư cách pháp nhân theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Thông tư liên tịch số 15/2015/TTLT-BTNMT-BNV-BTC ngày 04/4/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính. Do vậy, quyết định hành chính bị kiện mặc dù là do Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai Phan Thiết ban hành nhưng Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Bình Thuận được xác định là người bị kiện theo quy định tại Khoản 9 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính.Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh là đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bình Thuận nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận theo quy định tại Khoản 1 Điều 30 và Khoản 3 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính.

[4] Về thời hiệu khởi kiện: Ngày 29/10/2018, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai Phan Thiết ban hành Công văn số 1305/CNVPĐKĐĐPT ngày 15/3/2019, ông Triết nộp đơn khởi kiện tại Tòa án theo Giấy xác nhận đã nhận đơn khởi kiện số 260/TABT-HCTP là trong thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điểm aKhoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính.

[5] Về tính hợp pháp của quyết định hành chính bị khởi kiện: Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Bình Thuận xác định việc ban hành các quyết định hành chính bị kiện trong vụ án của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai Phan Thiết là đúng theo thẩm quyền được quy định tại Quyết định số 73/2015/QĐ-UBND ngày 25/12/2015, sửa đổi bổ sung tại Quyết định số 14/2018/QĐ-UBND ngày 09/02/2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận. Tại Khoản 10 Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là văn bản quy phạm pháp luật.

Ngày 11/01/2021Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận có Công văn số 135/UBND-NCKSTTHC, xác định việc Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai Phan Thiết trả hồ sơ và thông báo cho người sử dụng đất biết lý do khi không đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận là đúng theo quy định đã ban hành. Do vậy, việc ban hành các quyết định hành chính bị kiện của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai Phan Thiết là đúng thẩm quyền.

[6] Về nội dung: Xét lý do không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo hồ sơ đề nghị của ông Triết mà Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai Phan Thiết nêu tại các quyết định bị kiện cũng như ý kiến của Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Bình Thuận trong quá trình giải quyết vụ án là thửa đất đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có diện tích vượt quá hạn mức giao đất là 17.375,3m2.

Hội đồng xét xử nhận thấy trong tổng số diện tích đất mà ông Triết quản lý sử dụng như Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Bình Thuận xác định tại Công văn số 645/VPĐKĐĐ-ĐKCG ngày 22/4/2021 là 117.375,3m2 đã bị Ủy ban nhân dân thành phố Phan Thiết thu hồi 68.391,3m2 tại Quyết định số 6698/QĐ- UBND để phục vụ dự án xây dựng sân bay Phan Thiết. Như vậy, người bị kiện cũng xác định rằng, diện tích đất thực tế mà người đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang quản lý, sử dụng chỉ còn 48.984m2, tọa lạc tại thôn Thiện An, xã Thiện Nghiệp, thành phố Phan Thiết.

Cũng tại Văn bản số 645/VPĐKĐĐ-ĐKCG ngày 22/4/2021, Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh xác định Luật Đất đai 2013 không quy định các trường hợp có đất bị thu hồi thì không được tính vào hạn mức công nhận quyền sử dụng đất theo hình thức giao đất, đồng thời viện dẫn các quy định tại Khoản 2 Điều 129 Luật Đất đai, Điểm a Khoản 5 Điều 20 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ. Tại các quy định này không quy định buộc phải tính đất bị thu hồi vào hạn mức giao đất và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, người bị kiện không viện dẫn được quy phạm pháp luật nào khác, buộc phải tính đất đã thu hồi vào hạn mức giao đất.

[7] Thu hồi đất được hiểu là trường hợp Nhà nước ra quyết định thu lại quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân, tổ chức được Nhà nước trao quyền sử dụng đất, hoặc thu lại đất đang thuộc quyền sử dụng đất của người khác nếu người này có hành vi vi phạm pháp luật về đất đai trong quá trình sử dụng đất, do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con ngườitheo quy định tại Điều 16 Luật Đất đai.

Khi bị thu hồi đất, người sử dụng đất có nghĩa vụ phải giao lại đất cho Nhà nước theo quy định tại Khoản 7 Điều 170 Luật Đất đai. Từ đó, quyền sử dụng đất đối với thửa đất bị thu hồi của người sử dụng bị chấm dứt kể từ thời điểm bị Nhà nước thu hồi đất. Như vậy, không có cơ sở để xác định hộ ông Mai Thanh Tr còn quyền sử dụng đối với thửa đất có diện tích 68.391,3m2 bị thu hồi theo Quyết định số 6698/QĐ-UBND ngày 29/11/2013, của Ủy ban nhân dân thành phố Phan Thiết.

[8] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy lý do Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Bình Thuận đưa ra để xác định việc trả hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Mai Thanh Tr của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai Phan Thiết tại Công văn số 1305/CNVPĐKĐĐPT ngày 29/10/2018 và Công văn số 01/CNVPĐKĐĐPT ngày 08/01/2020 là không đúng quy định của pháp luật về đất đai, không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người sử dụng đất nên có căn cứ theo quy định của pháp luật chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.

[9] Ý kiến phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án của đại diện Viên kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận tại phiên tòa có căn cứ pháp luật.

[10] Do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận nên Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Bình Thuận phải chịu toàn bộ án phí hành chính sơ thẩmtheo quy định tại Điều 348 Luật Tố tụng hành chính, Khoản 2 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1, Khoản 2, Khoản 9, Khoản 11 Điều 3;Điểm a Khoản 2 Điều 116, Điều 131, Điều 158, Điều 191, Khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính.

- Điều 16,Khoản 7 Điều 170 của Luật Đất đai;

- Điều 348 của Luật Tố tụng hành chính, Khoản 2 Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Mai Thanh Tr.

Hủy Công văn số 1305/CNVPĐKĐĐPT ngày 29/10/2018 và Công văn số 01/CNVPĐKĐĐPT ngày 08/01/2020 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.

Buộc Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Bình Thuận phải thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.

2. Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Bình Thuận phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hành chính sơ thẩm. Ông Mai Thanh Tr được nhận lại 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Thuận theo Biên lai thu số 0027436 ngày 08/8/2019.

3. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (21/3/2022), đương sự không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

340
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 11/2022/HC-ST

Số hiệu:11/2022/HC-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Thuận
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 21/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về