Bản án về đòi tài sản số 15/2023/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 15/2023/DS-ST NGÀY 28/04/2023 VỀ ĐÒI TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 06/2023/TLST-DS ngày 05/01/2023 về việc “Đòi tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2023/QĐXXST-DS ngày 07/3/2023; Thông báo thay đổi thời gian xét xử vụ án dân sự sơ thẩm số 06A/TB-TA ngày 22/3/2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 25/2023/QĐST-DS ngày 15/4/2023 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Ông Võ Văn H, sinh năm: 1950; Địa chỉ: Tổ 08, thôn Miếu Bông, xã Hòa Phước, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

* Bị đơn: Trần Thị S, sinh năm: 1965; Địa chỉ: Số 250 đường N, thôn Miếu Bông, xã Hòa Phước, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn ông Võ Văn H trình bày tại đơn khởi kiện gửi đến Tòa án và trong quá trình tham gia tố tụng như sau:

Trước ngày 29/4/2020, qua sự quen biết từ công việc cùng làm ăn là môi giới trong lĩnh vực đất đai, bà Trần Thị S có trình bày hoàn cảnh gia đình đang gặp khó khăn về kinh tế và cần tiền để trả nợ nên nhờ ông giúp đỡ. Thời điểm đó, ông không có tiền mặt nhưng bà S năn nỉ với ông cho mượn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa đất số 764, tờ bản đồ số 18, địa chỉ tại xã Bình Trị, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, diện tích đất thổ cư là 500m2 đứng tên ông để thế chấp cho người khác vay tiền trong thời gian 12 tháng. Ông cùng bà S đến nhà ông Đồng thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên vay với số tiền là 130.000.000 đồng cho bà S mượn. Việc thế chấp giấy chứng nhận chứng nhận quyền sử dụng đất được ông đồng ý và ông Đồng đã đưa cho ông số tiền 130.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền, ông đưa tiền cho bà S và bà S cam kết trả gốc, lãi cho ông Đồng. Tuy nhiên, bà S trả lãi được 02 tháng thì không trả lãi tiến nên ông Đồng đòi lại số tiền gốc là là 130.000.000 đồng cùng với tiền lãi suất. Sau đó ông và bà S được ông Đồng giới thiệu cho ông Vinh để thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để trả nợ, ông Vinh đồng ý nhận thế chấp, giao tiền gốc và lãi cho ông Đồng với số tiền là 140.000.000 đồng và bà S phải có trách nhiệm trả tiếp tiền lãi cho ông Vinh. Tiếp đến, ông và bà S đến nhà ông Cường để thế chấp tài sản trên, ông Cường đồng ý và giao cho ông Vinh số tiền gốc và lãi là 150.000.000 đồng. Ông Vinh đã nhận đủ tiền và bà S có trách nhiệm trả tiền lãi cho ông Cường. Đến một khoảng thời gian sau, bà S đã bán được nhà và đất nhưng bà S không trả số tiền là 150.000 000 đồng cho ông Cường để lấy lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cho ông. Ông đã liên hệ nhiều lần nhưng bà S vẫn cố tình chây ì không trả. Đến ngày 08/6/2022, bà Sáng hẹn ông đến quán cà fe để bàn giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng khi ông đến để yêu cầu bà Sáng đưa giấy nhận nợ thì bà Sáng không đưa. Nay ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà S phải trả cho ông số tiền 130.000.000 đồng để ông trả tiền cho ông Cường lấy lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ ông Cường. Đối với khoản tiền lãi ông không có yêu cầu gì đối với bà S.

* Bị đơn bà Trần Thị Sáng trình bày trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án như sau:

Năm 2019, giữa bà và ông Võ Văn H có mối quan hệ tình cảm nên ông H có đi mượn và đưa tiền cho bà số tiền là 130.000.000 đồng. Vì ông H thấy bà khó khăn nên ông H có đưa bà mượn số tiền trên. Còn việc ông H dùng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để thế chấp cho ai thì bà không biết. Sau đó đến ngày 29/4/2020, ông H yêu cầu bà viết giấy mượn sổ đỏ để ông H làm giấy tờ đất đai liên quan đến sổ đỏ, vì trước đó ông H có đưa cho bà mượn số tiền trên. Đến tháng 06/2022, bà và bạn có mang một số tiền 150.000.000 đồng để trả nợ cho ông H thì bà yêu cầu ông H phải đưa bản gốc giấy mượn sổ đỏ ngày 29/4/2020, nhưng ông H đưa bản giấy pho to nên người cho mượn tiền không chịu và ngồi chờ ông H 01 giờ đồng hồ nhưng ông H không trở lại nên người cho mượn tiền không cho mượn tiền.

Nay ông H khởi kiện bà số tiền 130.000.000 đồng thì bà xin trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi hết nợ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn bà Trần Thị S được Tòa án tống đạt hợp lệ và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ vào Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử giải quyết vắng mặt bị đơn bà S.

[2] Về quan hệ tranh chấp: Do có quan hệ quen biết từ công việc cùng làm ăn nên vào tháng 4/2020 ông Võ Văn H có dùng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa đất số 764, tờ bản đồ số 18, địa chỉ tại xã Bình Trị, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, diện tích đất thổ cư là 500m² đứng tên Võ Văn H đem thể chấp, cầm cố để vay tiền cho bà Trần Thị S số tiền 130.000.000 đồng. Tuy nhiên, sau khi bà S nhận số tiền 130.000.000 đồng đã không thực hiện nghĩa vụ trà tiền gốc và lãi cho những người mà ông H đã thế chấp, cầm cố giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên dẫn đến ông H không lấy lại được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, ông H khởi kiện và tại phiên tòa yêu cầu bà S phải trả cho ông số tiền 130.000.000 đồng một lần, ngoài ra không yêu cầu gì thêm. Còn bà S tại phiên tòa vắng mặt nhưng trong quá trình giải quyết vụ án bà cũng đã thừa nhận có nợ ông H số tiền 130.000.000 đồng trên nhưng xin trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi hết số nợ.

Xét thấy: Giữa ông Võ Văn H và bà Trần Thị S xác định số tiền nợ hiện nay bà S còn nợ của ông H là 130.000.000 đồng, nhưng về phương thức trả nợ các bên không thống nhất. Ông H yêu cầu bà S phải trả một lần, còn bà S xin trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng. Xét thấy yêu cầu xin trả dần của bà S không được ông H chấp nhận, do đó căn cứ các Điều 280, 466 Bộ luật dân sự, Hội đồng xét xử buộc bà S phải trả cho ông H số tiền 130.000.000 đồng một lần theo yêu cầu khởi kiện của ông Hoa là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.

[31 Về án phí dân sự sơ thẩm: 6.500.000 đồng (sáu triệu năm trăm nghìn đồng), bà Trần Thị S phải chịu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Cặn cứ vào: - Các Điều 35, 227, 266, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 280, 466 Bộ luật dân sự; Nghị quyết sô 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: 1. Chấp nhận đơn khởi kiện về việc “Đòi tài sản” của ông Võ Văn H đối với bà Trần Thị S.

2. Buộc bà Trần Thị S phải trả cho ông Võ Văn H số tiền 130.000.000 đồng (một trăm ba mươi triệu đồng).

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, mà người phải thi hành án không thi hành án thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian và số tiền chậm trả.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: 6.500.000 đồng (sáu triệu năm trăm nghìn đồng), bà Trần Thị S phải chịu.

4. Về quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án: Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn ông Võ Văn H được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị đơn bà Trần Thị S vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận (hoặc niêm yết) bản án.

Trong trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 02 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo định tại điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

97
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về đòi tài sản số 15/2023/DS-ST

Số hiệu:15/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoà Vang - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về