Bản án 99/2019/HS-ST ngày 10/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 99/2019/HS-ST NGÀY 10/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 86/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 121/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Bùi Mạnh D, sinh năm 1997 tại Gia Lai; nơi cư trú: Tổ dân phố 13, phường Y, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Viết T và bà Nguyễn Thị Tuyết V; chưa có vợ và con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 07-01-2019 cho đến nay. Có mặt.

2. Huỳnh Hà T (tên gọi khác: Đ), sinh ngày 02-11-2001 tại Gia Lai; nơi cư trú: Tổ dân phố 13, phường Y, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Hoa; giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn T và bà Hà Thị T; chưa có vợ và con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 07-01-2019 cho đến nay. Có mặt.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Huỳnh Hà T:

- Ông Huỳnh Văn T, sinh năm 1971 và bà Hà Thị T, sinh năm 1973; địa chỉ: Hẻm 74 đường P, tổ dân phố 13, phường Y, thành phố P, tỉnh Gia Lai (Là cha và mẹ đẻ của bị cáo Huỳnh Hà T). Ông T vắng mặt, bà T có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Huỳnh Hà T: Bà Trương Thị P - Luật sư Văn phòng Luật sư Trương Thị P thuộc Đoàn luật sư tỉnh Gia Lai; địa chỉ: 13B đường Đ, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

Bị hại:

- Anh Nguyễn Văn H2, sinh năm 1995; địa chỉ: 11 đường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

- Chị Trịnh Thị Thùy D, sinh năm 1990; địa chỉ: Tổ dân phố 15, phường P, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

- Chị Phạm Thị Tú T, sinh năm 1994; địa chỉ: Thôn 8, xã A, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

- Anh Nguyễn Hữu C, sinh năm 1987; địa chỉ: Thôn 2, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

- Anh Phạm Văn Tiến S, sinh năm 1988; địa chỉ: 35 đường T, phường I, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

- Anh Nguyễn Phi H3, sinh năm 1983; địa chỉ: 41 đường Q, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

- Chị Nguyễn Thị Thùy V, sinh năm 1988; địa chỉ: 66 đường H, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Cháu Nguyễn Văn H1, sinh ngày 10-02-2005; địa chỉ: Thôn 1, thị trấn I, huyện I, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của cháu Nguyễn Văn H1: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1978 và chị Võ Thị H, sinh năm 1984; địa chỉ: Thôn 1, thị trấn I, huyện I, tỉnh Gia Lai (Là cha và mẹ đẻ của cháu Nguyễn Văn H1). Vắng mặt.

- Anh Đỗ Văn N, sinh năm 1993; địa chỉ: Tổ dân phố 13, phường Y, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

- Anh Lưu Chí H4, sinh năm 1985; địa chỉ: 315 đường C, tổ dân phố 13, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

- Anh Trần Trọng B, sinh năm 1981; địa chỉ: Tổ dân phố 1, phường C, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

- Anh Vũ Việt A, sinh năm 1978; địa chỉ: Tổ dân phố 1, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

- Bà Nguyễn Thị Tuyết V, sinh năm 1977; địa chỉ: Hẻm 43 đường P, tổ dân phố 13, phường Y, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Trên cơ sở kết quả điều tra, xác định được như sau:

Bùi Mạnh D và Huỳnh Hà T là bạn chơi với nhau. Thông qua T, D quen biết với Nguyễn Văn H1. Trong quá trình đi chơi với nhau, nghe T nói không có việc làm, không có tiền để tiêu xài thì D nói với T và H1: “Giờ không có việc làm thì đi nhảy kiếm tiền ăn uống, nếu có điện thoại thì mang về anh bẻ khóa”. Sau khi nghe D giải thích, T và H1 biết “Đi nhảy” tức là đi trộm cắp tài sản nên T, H1 đều đồng ý và thống nhất với nhau là sau khi trộm cắp được tài sản thì T, H1 sẽ đưa cho D bán lấy tiền cùng nhau tiêu xài. Trong khoảng thời gian từ tháng 7- 2018 đến tháng 8-2018, tại địa bàn thành phố P, Huỳnh Hà T và Nguyễn Văn H1 đã thực hiện 6 vụ trộm cắp, rồi đưa tài sản cho Bùi Mạnh D tiêu thụ. Cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 23 giờ ngày 05-7-2018, T đi bộ vào Trung tâm Văn hóa thể dục thể thao tỉnh Gia Lai tại 11 đường T, thành phố P, thấy anh Nguyễn Văn H2 đang ngủ và không đóng cửa phòng nên T vào lấy trộm của anh H2 các tài sản, gồm: 1 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F5 màu trắng, 1 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia Lumia màu đen (không rõ chủng loại) và 1 túi xách bằng vải bên trong có 300.000 đồng. Sau đó, T lục túi xách lấy 300.000 đồng, còn chiếc túi xách thì T vứt trên đường (không rõ vị trí nào). Đến khoảng 07 giờ ngày 06-7-2018, T gọi điện thoại cho Bùi Mạnh D đến quán cà phê Hương Trầm (ở 43 đường P, tổ dân phố 13, phường Y, thành phố P). Tại đây, T nói với D là T đã trộm cắp được điện thoại, rồi đưa chiếc điện thoại hiệu Oppo F5 cho D, để D mở mật khẩu điện thoại. Lúc này, D gọi điện cho bạn là Lâm Thanh T2 (sinh năm 1993, trú tại: Tổ dân phố 12, phường H, thành phố P) đến, rồi nhờ T2 chở D và T đến tiệm điện thoại T (ở 19 đường N, phường H, thành phố P). Đến nơi, T2 ngồi ngoài xe chờ, còn D và T vào bán chiếc điện thoại này cho anh Vũ Việt A (là chủ tiệm) với giá 3.200.000 đồng. Sau đó, T2 chở D và T quay lại quán cà phê H, rồi T2 đi về. Số tiền bán điện thoại có được, D cất giữ và cùng T tiêu xài cá nhân hết. Đối với chiếc điện thoại hiệu Nokia Lumia, T đưa cho D để sử dụng, sau đó bị hư hỏng nên D đã vứt đi nhưng không rõ ở vị trí nào nên không thu giữ được. Đối với 300.000 đồng thì T đã tiêu xài cá nhân hết.

Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại tiệm điện thoại T. Tuy nhiên, anh Vũ Việt A không xác định được có mua điện thoại của T, D hay không, do hàng ngày có nhiều khách hàng vào tiệm mua bán và tại tiệm không có chiếc điện thoại có đặc điểm như bị hại đã mất nên không thu giữ được.

Qua định giá, xác định: Chiếc điện thoại hiệu Oppo F5 có giá trị 3.000.000 đồng; chiếc điện thoại hiệu Nokia Lumia 630 có giá trị 300.000 đồng; chiếc túi xách bằng vải có giá trị 48.000 đồng.

Về dân sự: Anh Nguyễn Văn H2 yêu cầu bồi thường 3.000.000 đồng.

Vụ thứ hai: Vào khoảng 23 giờ ngày 15-7-2018, T cùng H1 đi dạo bộ tìm nhà dân sơ hở để vào trộm cắp tài sản. Khi đi đến trước trụ sở Công ty Cổ phần vật liệu và xây lắp G tại 25 đường C, phường H, thành phố P, thấy trên hàng rào lưới B40 của công ty có lỗ hổng kích thước (22x100)cm, nên T rủ H1 chui qua lỗ hổng này vào bên trong công ty. Khi vào trong, T cùng H1 lục tìm trên tầng hai của công ty nhưng không tìm được tài sản gì. Lúc này, T nhặt được chiếc kiềm loại đầu nhọn có tại công ty, đưa cho H1 cầm, rồi cả hai cùng đi xuống tầng dưới tiếp tục tìm tài sản. Thấy phòng kế toán có khóa nên T dùng chiếc kiềm cạy bung ổ khóa. Sau đó, T đi vào phòng lấy được các tài sản, gồm: 1 máy tính xách tay hiệu Macbook màu trắng của chị Trịnh Thị Thùy D, 1 máy tính xách tay hiệu Acer Aspire E5-571 Core i3 màu đen của chị Phạm Thị Tú T đều là nhân viên của công ty. T lấy chiếc túi xách bằng vải màu đen, kích thước (30x50x15)cm của chị Phạm Thị Tú T, rồi bỏ hai chiếc máy tính này vào trong, còn chiếc kiềm thì T vứt lại. Sau đó, cả hai đi về quán Net ở 147 đường C và ngủ tại đây. Đến khoảng 08 giờ ngày 16-7-2018, T và H1 mang chiếc laptop hiệu Acer màu đen đến bán cho anh Lưu Chí H4 là chủ tiệm cầm đồ 24H tại 35 đường N, phường H, thành phố P, được 500.000 đồng. Số tiền này, T và H1 cùng nhau tiêu xài chung hết. Đến chiều cùng ngày, khi D đến quán Net ở 147 đường C, T nói cho D biết việc T và H1 đã trộm được chiếc máy tính xách tay và H1 đưa chiếc máy tính hiệu Macbook màu trắng cho D và D đã bán chiếc máy tính này cho anh Đỗ Văn N được 600.000 đồng. Đối với chiếc túi xách, T đã vứt đi không rõ vị trí nào nên không thu giữ được. Số tiền này, D giữ và cùng với T, H1 tiêu xài cá nhân hết.

Sau khi mua chiếc máy tính trên, anh N để tại nhà. Khi biết được chiếc máy tính này là tài sản do phạm tội mà có thì anh N đã trả lại cho D để D giao nộp cho Cơ quan điều tra.

Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại tiệm cầm đồ 24H, nhưng anh H4 không xác định được có mua máy tính của T, H1 hay không, do hàng ngày có nhiều khách hàng vào tiệm mua bán và tại tiệm không có chiếc máy tính có đặc điểm như bị hại đã mất nên không thu giữ được.

Qua định giá, xác định: Chiếc máy tính xách tay hiệu Macbook màu trắng có giá trị 1.000.000 đồng; chiếc máy tính hiệu Acer Aspire E5-571 Core i3 có giá trị 4.000.000 đồng; chiếc túi vải có giá trị 24.000 đồng. Sau khi định giá xong, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P đã trả chiếc máy tính hiệu Macbook màu trắng cho chủ sở hữu là chị Trịnh Thị Thùy D1.

Đối với chiếc kiềm mà T nhặt được tại công ty và dùng để thực hiện hành vi phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P đã tiến hành xác minh truy tìm nhưng không thu giữ được.

Về dân sự: Chị Phạm Thị Tú T yêu cầu bồi thường 5.000.000 đồng; chị Trịnh Thị Thùy D và anh Đỗ Văn N không yêu cầu bồi thường về dân sự.

Vụ thứ ba: Khoảng 02 giờ ngày 20-7-2018, T và H1 đang chơi game tại quán Net ở 147 đường C, phường H, thành phố P thì gặp K (chưa xác định nhân thân, lai lịch) là người cùng chơi game tại đây. T hỏi mượn xe mô tô (không rõ biển số) của K nói đi công việc nên K đưa xe cho T. Lúc này, T điều khiển xe mô tô chở H1 đi tìm nhà dân có sơ hở để vào trộm cắp tài sản. Khi đi đến trước quán M (ở 347 đường Phạm Văn Đồng, phường T, thành phố P), thấy cổng của quán làm bằng sắt có lỗ hổng diện (22x120)cm nên T nói H1 đứng ngoài cảnh giới, còn T chui qua lỗ hổng này vào bên trong lấy trộm được 1 điện thoại hiệu HTC Desire 10 Pro, màu đen của anh Nguyễn Hữu C. Sau đó, T chui ra ngoài theo lối cũ, rồi T điều khiển xe chở H1 quay về quán Net ở 147 đường C. Tại đây, T, H1 gặp D cũng đang chơi game, T nói với D là T và H1 vừa trộm cắp được điện thoại và đưa cho D chiếc điện thoại này. Đến khoảng 09 giờ hôm sau, D điều khiển xe mô tô loại Wave, biển kiểm soát 81K9-2040 (do D mượn trước đó của bà Nguyễn Thị Tuyết V là mẹ của D) chở T đến tiệm điện thoại T tại 19 đường N, phường H, thành phố P và D đã bán chiếc điện thoại này cho anh Vũ Việt A (là chủ tiệm) được 500.000 đồng. Số tiền này, D cất giữ và cùng T, H1 tiêu xài cá nhân hết.

Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại tiệm điện thoại T. Tuy nhiên, anh Vũ Việt A không xác định được có mua điện thoại của T, D hay không vì tại tiệm không có chiếc điện thoại có đặc điểm như bị hại đã mất nên không thu giữ được.

Qua định giá, xác định: Chiếc điện thoại HTC Desire 10 Pro có giá trị 1.650.000 đồng.

Về dân sự: Anh Nguyễn Hữu C không yêu cầu bồi thường về dân sự.

Vụ thứ tư: Vào khoảng 23 giờ ngày 26-7-2018, T đi dạo bộ tìm nhà dân có sơ hở để vào trộm cắp tài sản. Khi đi đến trước quán Lá của anh Phạm Văn Tiến S ở 248 đường C, phường H, thành phố P, thấy bãi đất trống bên cạnh quán có đường vào nên T đi theo lối này vào bên trong quán; rồi T đến quầy thu ngân lấy trong ngăn tủ 1 con heo đất, 10 gói thuốc lá hiệu CaravenA, 10 gói thuốc lá hiệu con Ó, 15 gói thuốc lá hiệu White Horse, 5 gói thuốc lá loại Jet. T bỏ các tài sản này vào một bì nilon màu đen lấy tại quán và đi ra ngoài theo lối cũ. Sau đó, T đập vỡ con heo đất lấy được 1.200.000 đồng, rồi quay về quán Net ở 147 đường C gặp D. T nói cho D biết là đã lấy trộm được 1.200.000 đồng và đưa toàn bộ số tiền này cho D cất giữ rồi cùng tiêu xài cá nhân hết. Đối với số thuốc lá, T đem bán cho một người đi đường (không rõ nhân thân, lai lịch) được 400.000 đồng và đã tiêu xài cá nhân hết.

Qua định giá, xác định: 10 gói thuốc lá hiệu CaravenA có giá trị 200.000 đồng, 10 gói thuốc lá hiệu con Ó có giá trị 70.000 đồng, 15 gói thuốc lá hiệu White Horse có giá trị 330.000 đồng, 5 gói thuốc lá hiệu Jet có giá trị 100.000 đồng và con heo đất có giá trị 20.000 đồng.

Về dân sự: Anh Phạm Văn Tiến S không yêu cầu bồi thường về dân sự.

Vụ thứ năm: Vào khoảng 23 giờ ngày 28-7-2018, khi đang chơi game tại quán Net ở 147 đường C, T nói H1 đi trộm cắp, nếu lấy được tài sản thì mang về quán gặp T. H1 đồng ý và đi dạo bộ tìm nhà dân sơ hở để vào trộm cắp tài sản. Khi đi đến trước nhà anh Nguyễn Phi H3, thấy nhà không khóa cửa, bên trong nhà có chiếc xe mô tô nhãn hiệu Sirius, biển số 81T5-5271 (số khung 640AY350490, số máy 5C64350495), màu sơn đỏ - đen, có găm chìa khóa trong ổ khóa điện. Lúc này, H1 đi vào dắt chiếc xe này ra đường, rồi chạy về quán Net ở 147 Cách mạng tháng Tám, H1 nói với T vừa trộm cắp được chiếc xe mô tô và đưa chiếc xe này cho T. Lúc này có D đang chơi game thì T nói cho D biết việc H1 đã lấy trộm được xe mô tô nêu trên nên D nói T tìm người bán xe rồi T cất xe ở đâu không nhớ rõ. Sau đó, T đã đăng thông tin rao bán xe trên mạng xã hội Facebook (khoảng 7 đến 10 ngày) thì có một người tên “Minh Vũ” đã đồng ý mua với giá 2.500.000 đồng và hẹn gặp giao dịch mua bán xe tại khu vực ngã tư B, phường Yên Thế, thành phố P. Sau khi bán xe, T nói với D là đã bán chiếc xe mô tô do H1 trộm cắp, được 1.500.000 đồng và T đưa cho D 1.000.000 đồng rồi D, H1, T tiêu xài hết, còn 1.500.000 đồng, T cất giữ riêng và tiêu xài.

Cơ quan điều tra đã tiến hành cho T mở nhật ký Facebook nhưng nội dụng trao đổi trên tài khoản Facebook đã bị xóa nên không xác minh được họ tên, địa chỉ của đối tượng này nên không thu giữ được chiếc xe nêu trên.

Qua định giá, xác định: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Sirius, biển số 81T5-5271, màu sơn đỏ - đen có giá trị 8.000.000 đồng.

Về dân sự: Anh Nguyễn Phi H3 yêu cầu bồi thường 10.000.000 đồng. Hiện các bị cáo chưa thực hiện việc bồi thường.

Vụ thứ sáu: Vào khoảng 02 giờ ngày 02-8-2018, T đi dạo bộ tìm tài sản để trộm cắp. Khi đi đến trước quán cà phê L tại 93/6 đường P, phường T, thành phố P, thấy bên trong quán không có người trông coi, nên T chui qua khe hở của cổng bằng sắt có diện (20x150)cm vào bên trong quán. Sau đó, T đến quầy thu ngân lấy trộm các tài sản, gồm: 1 chiếc máy tính xách tay hiệu Compad Presario CQ40 340TU, 1 điện thoại di động hiệu QMobile của chị Nguyễn Thị Thùy V (là chủ quán) rồi đi ra ngoài theo lối cũ. Sau đó, T gọi điện thoại nói cho D biết là đã lấy trộm được máy tính xách tay. D nói T mang máy tính đi đến hẻm 43 đường P, thành phố P đưa cho D để cất giấu. Sáng ngày hôm sau, D mang chiếc máy tính này đến bán cho anh Trần Trọng B là chủ tiệm điện thoại T ở 987 đường T, phường C, thành phố P, với giá 500.000 đồng. Số tiền này, D và T cùng nhau tiêu xài cá nhân hết. Đối với chiếc điện thoại hiệu QMobile, T đã đưa cho một người tên H (là bạn của D không rõ nhân thân, lai lịch) sử dụng nên hiện không thu giữ được.

Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại tiệm điện thoại T. Tuy nhiên, anh Trần Trọng B không xác định được có mua máy tính của D hay không vì tại tiệm không có chiếc điện thoại có đặc điểm như bị hại đã mất nên không thu giữ được.

Qua định giá, xác định: Chiếc máy tính xách tay hiệu Compad Presario có giá trị 2.000.000 đồng; chiếc điện thoại hiệu QMobile QQ15 giá trị 50.000 đồng.

Về dân sự: Chị Nguyễn Thị Thùy V không yêu cầu bồi thường về dân sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Bùi Mạnh D và Huỳnh Hà T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

2. Các vấn đề khác:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về các kết luận định giá của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự.

Ngoài ra, quá trình điều tra vụ án, bị cáo T còn khai nhận: Trước khi cùng với H1 và D thực hiện các vụ trộm cắp tài sản nêu trên, T đã thực hiện 2 vụ trộm cắp tài sản, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 0 giờ (không rõ ngày) trong tháng 6-2018, T đến quán nhậu P ở tại 199 đường W, phường I, thành phố P, lấy trộm được 1 điện thoại hiệu Samsung (không rõ đặc điểm, chủng loại cụ thể). Sau đó, T mang chiếc điện thoại này đến tiệm điện thoại Alo tại 69 đường H, phường D, thành phố P, bán được 1.200.000 đồng. Số tiền này, T đưa cho D mượn 600.000 đồng, còn lại 600.000 đồng thì T đã tiêu xài cá nhân hết.

Vụ thứ hai: Khoảng 01 giờ (không rõ ngày) trong tháng 6-2018, T tiếp tục đi đến quán P, lấy trộm được 1 điện thoại di động hiệu Oppo. Đến sáng cùng ngày, tại quán cà phê H, T đưa cho D xem chiếc điện thoại đã trộm được. Sau đó, D điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave, biển số 81K9-2040 (do D mượn của bà V là mẹ của D) chở T đến bán chiếc điện thoại này tại tiệm điện thoại T ở 19 đường N, phường H, thành phố P, với giá 800.000 đồng. Số tiền này, D và T cùng nhau tiêu xài cá nhân hết.

Đối với 2 vụ này, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P đã tiến hành xác minh tại 199 đường W, phường I, thành phố P nhưng quán này không còn hoạt động. Cơ quan điều tra đã thông báo tìm các bị hại nhưng đến nay vẫn chưa xác định được các bị hại là ai. Xác minh tại tiệm điện thoại T thì không có các tài sản như trên. Do không xác định được bị hại và không thu giữ được tang vật, không xác định được chủng loại, mẫu mã, đặc điểm cụ thể của các tài sản đã chiếm đoạt để định giá tài sản. Dó đó, chưa có đủ căn cứ để xử lý đối với T và D đối với 2 vụ này. Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau khi có đủ căn cứ.

3. Cáo trạng của Viện kiểm sát:

Bản cáo trạng số: 93/CT-VKS ngày 04-6-2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai đã truy tố các bị cáo Bùi Mạnh D và Huỳnh Hà T về tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo Bùi Mạnh D và Huỳnh Hà T và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Bùi Mạnh D và Huỳnh Hà T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt:

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, r, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Bùi Mạnh D với mức án từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, r, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50; Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Huỳnh Hà T với mức án từ 14 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Về dân sự:

Buộc bị cáo Bùi Mạnh D, ông Huỳnh Văn T và bà Hà Thị T, anh Nguyễn Văn T và chị Võ Thị H phải liên đới bồi thường cho chị Phạm Thị Tú T 2.164.000 đồng và liên đới bồi thường cho anh Nguyễn Phi H3 8.000.000 đồng.

Về biện pháp tư pháp:

Buộc bị cáo Bùi Mạnh D phải nộp 1.316.700 đồng vào ngân sách Nhà nước.

Buộc ông Huỳnh Văn T và bà Hà Thị T phải nộp 2.016.700 đồng vào ngân sách Nhà nước.

Buộc anh Nguyễn Văn T và chị Võ Thị H phải nộp 366.700 đồng vào ngân sách Nhà nước.

Về án phí: Buộc các bị cáo tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Người bào chữa cho bị cáo Huỳnh Hà T trình bày nội dung bào chữa: Lời lời khai của bị cáo Huỳnh Hà T tại phiên toà có đủ căn cứ để khẳng định bị cáo Huỳnh Hà T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tuy nhiên, khi phạm tội bị cáo Huỳnh Hà T dưới 18 tuổi nên nhận thức còn hạn chế. Sau khi phạm tội, bị cáo đã ra tự thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tự nguyện khắc phục hậu quả và được các bị hại là anh Nguyễn Văn H2 và chị Phạm Thị Tú T xin giảm nhẹ hình phạt. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức án nhẹ nhất và được hưởng án treo.

Lời nói sau cùng của các bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án: Các bị cáo thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, các bị cáo rất ăn năn hối hận về những hành vi sai trái của mình; xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P, tỉnh Gia Lai; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc có khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi bị truy tố của các bị cáo:

Xét thấy lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ để kết luận các bị cáo Bùi Mạnh D và Huỳnh Hà T phạm tội như sau:

Bùi Mạnh D và Huỳnh Hà T là bạn chơi với nhau. Thông qua T, D quen biết với Nguyễn Văn H1 (sinh ngày 10-02-2005). Trong quá trình đi chơi với nhau, nghe T nói không có việc làm, không có tiền để tiêu xài thì D nói với T và H1 đi trộm cắp tài sản. D đã thống nhất trước với T và H1 là sau khi T, H1 trộm cắp được tài sản thì sẽ đưa cho D đi bán lấy tiền cùng nhau tiêu xài. Trong khoảng thời gian từ ngày 05-7-2018 đến ngày 02-8-2018, tại địa bàn thành phố P, Huỳnh Hà T và Nguyễn Văn H1 đã thực hiện 6 vụ trộm cắp tài sản, rồi đưa tài sản cho Bùi Mạnh D tiêu thụ, tài sản chiếm đoạt có tổng giá trị là 22.292.000 đồng.

Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội, các bị cáo biết rõ hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vì muốn kiếm tiền một cách bất chính nên đã cố tình chiếm đoạt tài sản của các bị hại. Đây là vụ án đồng phạm nhưng chỉ là đồng phạm mang tính giản đơn. Trong đó, Bùi Mạnh D là người rủ rê, khởi xướng và hứa hẹn tiêu thụ tài sản; bị cáo Huỳnh Hà T, Nguyễn Văn H1 là người thực hành tội phạm, trong đó:

Huỳnh Hà T một mình thực hiện 3 vụ, tài sản chiếm đoạt có tổng giá trị 7.618.000 đồng; Huỳnh Hà T cùng với Nguyễn Văn H1 thực hiện 3 vụ, tài sản chiếm đoạt có tổng giá trị 14.674.000 đồng.

Sau khi trộm cắp được tài sản, T và H1 đã đưa cho D đi tiêu thụ với tổng giá trị tài sản là 17.150.000 đồng. Như vậy, D đã đồng phạm trộm cắp cùng với T và H1, tài sản có tổng giá trị là 17.150.000 đồng.

Các bị cáo Bùi Mạnh D, Huỳnh Hà T đã thực hiện 6 vụ trộm cắp nhưng các bị cáo không sử dụng số tiền do phạm tội mà có làm nguồn sống chính nên hành vi của các bị cáo không phạm vào tình tiết “Có tính chất chuyên nghiệp”. Do vậy, hành vi của các bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với một mức án nghiêm khắc để các bị cáo có đủ thời gian học tập, rèn luyện bản thân trở thành người có ích cho xã hội.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo Bùi Mạnh D thực hiện 3 vụ trộm cắp tài sản và bị cáo Huỳnh Hà T thực hiện 4 vụ trộm cắp tài sản có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên nên hành vi của các bị cáo đã phạm vào tình tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Khi lượng hình, cũng xét cho các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã ra tự thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình; được anh Nguyễn Văn H2 xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, chị Phạm Thị Tú T xin giảm nhẹ hình phạt bị cáo Huỳnh Hà T, khi phạm tội bị cáo Huỳnh Hà T dưới 18 tuổi. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Vì vậy, Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo khi quyết định hình phạt.

[4] Về dân sự:

Quá trình tham gia tố tụng, các bị hại là chị Trịnh Thị Thùy D, anh Nguyễn Hữu C, anh Phạm Văn Tiến S, anh Nguyễn Phi H3, chị Nguyễn Thị Thùy V và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Đỗ Văn N không yêu cầu gì về phần bồi thường dân sự. Do vậy, Hội đồng xét xử không giải quyết.

Bị hại là anh Nguyễn Văn H2 yêu cầu các bị cáo bồi thường 3.000.000 đồng, mỗi bị cáo đã bồi thường cho anh H2 1.500.000 đồng. Tại phiên tòa, anh H2 không yêu cầu giải quyết về bồi thường dân sự.

Bị hại là chị Phạm Thị Tú T yêu cầu bồi thường 4.024.000 đồng, bị cáo Huỳnh Hà T đã bồi thường 1.860.000 đồng, chị T yêu cầu bồi thường 2.164.000 đồng còn lại. Bị hại là anh Nguyễn Phi H3 yêu cầu bồi thường 8.000.000 đồng. Do bị cáo D, bị cáo T và H1 cùng nhau tiêu xài số tiền bán được tài sản trộm cắp nên bị cáo D, bị cáo T và H1 pH1 có nghĩa vụ liên đới bồi thường cho các bị hại.

[5] Về biện pháp tư pháp:

Trong vụ án này, bị cáo D đã hưởng lợi bất chính từ việc bán tài sản trộm cắp 1.316.700 đồng, bị cáo T đã hưởng lợi bất chính từ việc trộm cắp 2.016.700 đồng và Nguyễn Văn H1 đã hưởng lợi bất chính từ việc trộm cắp 366.700 đồng nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Do bị cáo T và H1 chưa thành niên nên cha, mẹ của bị cáo T là ông Huỳnh Văn T, bà Hà Thị T và cha, mẹ của H1 là anh Nguyễn Văn T, chị Võ Thị H có nghĩa vụ bồi thường và nộp tiền vào ngân sách nhà nước thay cho bị cáo T và H1.

[6] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có nghề nghiệp, việc làm ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[7] Về các vấn đề khác:

Đối với chiếc xe mô tô biển số 81K9-2040 mà bị cáo D đã sử dụng để đi thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, xác định: Chủ sở hữu của chiếc xe này là bà Nguyễn Thị Tuyết V (là mẹ của D), bà Vân cho D mượn xe để đi chơi, sau đó D sử dụng chiếc xe này làm phương tiện đi thực hiện hành vi phạm tội thì bà Vân không biết nên Cơ quan điều tra không thu giữ chiếc xe này là có căn cứ.

Đối với điện thoại mà bị cáo D và T liên lạc với nhau trong việc thực hiện hành vi phạm tội do các bị cáo đã làm rơi mất (không rõ ở đâu) nên Cơ quan điều tra không thu giữ được, nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với Nguyễn Văn H1 là người đã cùng với bị cáo D và T thực hiện 3 vụ trộm cắp, tài sản có giá trị 14.674.000 đồng. Thời điểm thực hiện vi trộm cắp thì H1 chưa đủ 14 tuổi nên H1 không đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

Đối với Lâm Thanh T2 là người đã chở D và T đi bán điện thoại nhưng T2 không biết đó là điện thoại do phạm tội mà có và T2 cũng không được hưởng lợi gì từ việc D và T bán điện thoại. Do đó, không có căn cứ để xử lý đối với T2.

Đối với Đỗ Văn N là người đã mua chiếc máy tính xách tay của D nhưng khi mua, N không biết đây là tài sản do phạm tội mà có nên không có căn cứ để xứ lý đối với N về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Đối với bà Bùi Thị L (là chủ quán cà phê H) và anh Trương Anh T(là chủ quán Net ở 147 đường C), việc T, H1, D mang tài sản do trộm cắp mà có về quán và trao đổi về việc bán tài sản thì bà L và anh T hoàn toàn không biết nên không đủ căn cứ xử lý về hành vi chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có.

Đối với anh Lưu Chí H4, anh Trần Trọng B, anh Vũ Việt A là những người đã mua các tài sản của các bị cáo T và D. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác định địa điểm, đồng thời các chủ tiệm không xác định có mua tài sản từ bị cáo T, D cũng như khi mua tài sản, chủ tiệm không biết nguồn gốc tài sản. Do đó, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý đối với anh H4, anh B và anh A về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Đối với đối tượng K là người đã cho T mượn xe mô tô để T làm phương tiện đi thực hiện hành vi phạm tội, đối tượng H là người được T cho chiếc điện thoại hiệu QMobile do T trộm cắp mà có và đối tượng đã mua số thuốc lá do T trộm cắp mà có. Hiện chưa xác định được họ tên, địa chỉ của các đối tượng này nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh và xử lý sau.

Đối với đối tượng có tên “Minh Vũ” trên mạng Facebook là người đã mua chiếc xe mô tô hiệu Sirius biển kiểm soát 81T5-5271 của T. Quá trình điều tra vụ án, Cơ quan điều tra đã tiến hành cho T mở nhật ký Facebook nhưng nội dung trao đổi trên tài khoản Facebook đã bị xóa nên không xác minh được họ tên, địa chỉ của đối tượng này. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh và xử lý sau.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo D, ông Huỳnh Văn T và bà Hà Thị T, anh Nguyễn Văn T và chị Võ Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; các điểm b, r, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Bùi Mạnh D.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; các điểm b, r, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50; Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Huỳnh Hà T.

1. Về tội danh:

Tuyên bố các bị cáo Bùi Mạnh D và Huỳnh Hà T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Bùi Mạnh D 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi chấp hành án.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Hà T 14 (mười bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi chấp hành án.

3. Về bồi thường thiệt hại:

Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và các Điều 288, 584, 585, 586, 589 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Bùi Mạnh D, ông Huỳnh Văn T và bà Hà Thị T, anh Nguyễn Văn T và chị Võ Thị H phải liên đới bồi thường cho chị Phạm Thị Tú T 2.164.000 đồng và phải liên đới bồi thường cho anh Nguyễn Phi H3 8.000.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

4. Về các biện pháp tư pháp:

Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 46 và Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 Buộc bị cáo Bùi Mạnh D phải nộp 1.316.700 đồng vào ngân sách nhà nước. Buộc ông Huỳnh Văn T và bà Hà Thị T phải nộp 2.016.700 đồng vào ngân sách nhà nước.

Buộc anh Nguyễn Văn T và chị Võ Thị H phải nộp 366.700 đồng vào ngân sách nhà nước.

5. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Bùi Mạnh D phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm. thẩm.

 Buộc bị cáo Huỳnh Hà T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ Buộc bị cáo Bùi Mạnh D, ông Huỳnh Văn T và bà Hà Thị T, anh Nguyễn Văn T và chị Võ Thị H phải liên đới chịu 508.200 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Đối với các bị hại, người đại diện hợp pháp của bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết công khai.

7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người pH1 thi hành án dân sự có quyền thoả T thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 99/2019/HS-ST ngày 10/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:99/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về