Bản án 98/2019/HSST ngày 06/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 98/2019/HSST NGÀY 06/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Bình Thạnh tiến hành xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 94/2019/TLST-HS ngày 18/6/2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 114/QĐXX ngày 22/7/2019 đối với bị cáo:

u Trần T; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1984 Tại: G; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nơi đăng ký HKTT: A khu phố H, phường N, thị xã C, tỉnh Tiền Giang; Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Làm bếp; Họ tên cha: Lưu Văn M và mẹ: Trần Thị C; Anh, chị, em: Có 01 người, bị cáo là con nhỏ nhất trong gia đình; Vợ: Nguyễn Thị Mộng T; Con: Có 01 con sinh năm 2015; Tiền án, Tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giam từ ngày 13/11/2018. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 23 giờ 15 phút này 12/11/2018, tổ tuần tra Công an phường 5, quận Bình Thạnh tuần tra đến trước nhà số B đường L, phường N, quận B phát hiện Lưu Trần T điều khiển xe gắn máy hiệu Honda AirBlade, biển số 54M4-0121 có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe và mời về trụ sở Công an phường 5 để kiểm tra. Qua kiểm tra, tổ tuần tra phát hiện trong giỏ đeo chéo màu nâu in chữ PIER POLO của T đang đeo trên người có 01 hộp nhựa màu xanh lá cây, bên ngoài có dán dòng chữ Doublemint, bên trong có 02 gói nylon chứa tinh thể không màu (T khai là ma túy tổng hợp).

Tại Cơ quan Điều tra, Lưu Trần T đã khai nhận hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của mình như sau:

Ngày 12/11/2018, T điều khiển xe gắn máy biển số 54M4-0121, đi từ thành phố Biên Hòa đến Thành phố Hồ Chí Minh mua đồ cũ mang về thành phố Biên Hòa bán lại. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, T gặp một người bạn ngoài xã hội tên I (không rõ lai lịch) và cả hai cùng ngồi nhậu tại quán nhậu ở quận P. Trong lúc ngồi nhậu thì T nảy sinh ý định muốn sử dụng ma túy đá nên hỏi I có biết nơi mua ma túy đá không, I trả lời biết. Sau đó, T thấy I gọi điện thoại cho ai đó (T không nghe được nội dung cuộc nói chuyện điện thoại và I cũng không nói là gọi cho ai). Khoảng 01 tiếng sau thì có một người thanh niên đến gặp I và đưa cho I một hộp kẹo Doublemint màu xanh, rồi I cầm hộp kẹo vô đưa lại cho T, I nói bên trong hộp kẹo có 02 gói ma túy đá. T cầm hộp kẹo có chứa 02 gói ma túy đá đi vô nhà vệ sinh của quán nhậu để sử dụng, số ma túy còn lại T bỏ trong hộp kẹo và cất vào trong giỏ đeo cá nhân của T rồi ra nhậu với I. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, T điều khiển xe gắn máy đi về, trên đường đi đến trước số nhà B đường L, phường N, quận B thì bị tổ tuần tra Công an phường 5 kiểm tra và thu giữ số ma túy trên.

Tại bản cáo trạng số 96/CT-VKSBTh ngày 13/06/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh đã truy tố bị cáo Lưu Trần T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh thực hiện quyền công tố tại phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, trình bày lời luận tội, đánh giá tính chất, mức độ và hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị:

- Tuyên bố bị cáo Lưu Trần T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249 và điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo từ 6 đến 7 năm tù.

- 01 hộp nhựa màu xanh lá cây bên ngoài có dán dòng chữ Doublemint; 01 giỏ đeo chéo màu nâu in chữ PIER POLO; 01 gói niêm phong bên ngoài ghi số vụ 1845/18 Bình Thạnh cùng các chữ ký ghi tên của Giám định viên Phan Tấn Quốc và cán bộ Ngô Sỹ Anh Tuấn, bên trong là mẫu vật còn lại sau khi sử dụng phục vụ giám định gồm: tinh thể không màu có khối lượng 9,4366 gam là ma túy. Nhận thấy, các vật chứng này không có giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng số thuê bao 0902.953938 là tài sản riêng của bị cáo không liên quan đến vụ án nên đề nghị trả lại cho bị cáo.

- 01 xe gắn máy nhãn hiệu Honda AirBlade BS: 54M4-0121; SK: Y-053071; SM: JF27E-0054311; Dung tích xi lanh: 108; màu sơn: đen bạc; loại xe: hai bánh từ 50 - 175 cm3. Qua xác minh, xe trên là do bà Võ Thị H đứng tên chủ sở hữu. Bà H làm hợp đồng ủy quyền xe lại cho anh Nguyễn Tấn L, sau đó anh L tiếp tục làm hợp đồng ủy quyền xe lại cho anh Phan Anh Q và anh Q đã bán lại xe cho T, khi bán có làm hợp đồng mua bán. Nhận thấy, chiếc xe này bị cáo sử dụng làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội nên đề nghị tịch thu sung quỹ nhà nước.

* Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu và không có ý kiến gì tranh luận với phần luận tội của đại diện Viện kiểm sát, lời nói sau cùng bị cáo đã nhận thức việc làm của mình là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Bình Thạnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, cũng những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Tại cơ quan điều tra cũng như qua thẩm tra xét hỏi trước phiên tòa hôm nay, bị cáo Lưu Trần T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với nội dung biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với vật chứng là ma tuý thu giữ của bị cáo, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với kết luận của tổ chức giám định kỹ thuật hình sự về chất ma tuý thu được của bị cáo, Hội đồng xét xử, nhận thấy: Bị cáo Lưu Trần T là người đã trưởng thành, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, đã có hành vi mua ma tuý về để sử dụng cho bản thân thì bị bắt quả tang, số ma tuý thu giữ của bị cáo theo kết luận giám định số 1845/KLGĐ – H ngày 19/11/2018 kết luận: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m cần giám định là ma tuý ở thể rắn, có tổng khối lượng là có khối lượng 9,7693gam, loại Methampheamine. Với hành vi nêu trên, có đủ cơ sở kết luận bị cáo T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” tội phạm được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, bị cáo tàng trữ ma túy có tổng khối lượng là 9,7693 gam, loại Methamphetamine, thuộc trường hợp tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam là tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Về tính chất, mức độ, động cơ, mục đích hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo T đủ khả năng nhận thức ma tuý là chất gây nghiện, người sử dụng sẽ bị huỷ hoại cả thể chất lẫn tinh thần, ai vi phạm sẽ bị Nhà nước xử lý nghiêm khắc, nhưng để thoả mãn ham muốn của bản thân, bị cáo vẫn bất chấp mua ma tuý về sử dụng, điều này gây tác hại rất lớn cho xã hội. Xét hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý chất gây nghiện, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội và là nguyên nhân làm phát sinh, phát triển các tệ nạn xã hội khác của xã hội nên cần phải xử phạt bị cáo một mức hình phạt thật nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nhân thân bị cáo chưa có tiền án tiền sự, bị cáo phạm tội lần đầu là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định.

[5] Về xử lý vật chứng:

- 01 hộp nhựa màu xanh lá cây bên ngoài có dán dòng chữ Doublemint; 01 gói niêm phong bên ngoài ghi số vụ 1845/18 Bình Thạnh cùng các chữ ký ghi tên của Giám định viên Phan Tấn Quốc và cán bộ Ngô Sỹ Anh Tuấn, bên trong là mẫu vật còn lại sau khi sử dụng phục vụ giám định gồm: tinh thể không màu có khối lượng 9,4366 gam là ma túy; 01 giỏ đeo chéo màu nâu in chữ PIER POLO. Nhận thấy, các vật chứng này không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 xe gắn máy nhãn hiệu Honda AirBlade BS: 54M4-0121; SK: Y-053071; SM: JF27E-0054311; Dung tích xi lanh: 108; màu sơn: đen bạc; loại xe: hai bánh từ 50 - 175 cm3. Qua xác minh, xe trên là do bà Võ Thị H đứng tên chủ sở hữu. Bà H làm hợp đồng ủy quyền xe lại cho anh Nguyễn Tấn L, sau đó anh L tiếp tục làm hợp đồng ủy quyền xe lại cho anh Phan Anh Q và anh Q đã bán lại xe cho T, khi bán có làm hợp đồng mua bán. Nhận thấy, chiếc xe này bị cáo sử dụng làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng số thuê bao 0902.953938 là tài sản riêng của bị cáo không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho bị cáo.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lưu Trần T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lưu Trần T 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/11/2018 2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 45 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy các vật chứng: 01 hộp nhựa màu xanh lá cây bên ngoài có dán dòng chữ Doublemint; 01 gói niêm phong bên ngoài ghi số vụ 1845/18 Bình Thạnh cùng các chữ ký ghi tên của Giám định viên Phan Tấn Quốc và cán bộ Ngô Sỹ Anh Tuấn, bên trong là mẫu vật còn lại sau khi sử dụng phục vụ giám định gồm: tinh thể không màu có khối lượng 9,4366 gam là ma túy; 01 giỏ đeo chéo màu nâu in chữ PIER POLO.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 xe gắn máy nhãn hiệu Honda; số loại: AirBlade BS: 54M4-0121; SK: Y-053071; SM: JF27E-0054311; Dung tích xi lanh: 108; màu sơn: đen bạc; loại xe: hai bánh từ 50 - 175 cm3.

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng số thuê bao 0902.953938 (Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 12/6/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Bình Thạnh).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và Lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) án phí hình sự sơ thẩm, nộp tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng điều 331 và 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 98/2019/HSST ngày 06/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:98/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về