TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 98/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 30 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã D xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 334/2019/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 101/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 7 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số: 91/2019/QĐST- HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hồng V, sinh năm 1981; tạm trú: 521/96/18 (số cũ 95/25B) đường D – B, khu phố Đ 4, phường A, thị xã D, tỉnh B. Có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Bà Hứa Thị T, Luật sư của chi nhánh Văn phòng luật sư V thuộc đoàn luật sư Thành phố M.
- Bị đơn: Anh Mai Hùng V, sinh năm 1978; tạm trú: 521/96/18 (số cũ 95/25B) đường D – B, khu phố Đ4, phường A, thị xã D, tỉnh B. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng V trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hồng V và anh Mai Hùng V sau thời gian tự nguyện tìm hiểu nhau khoảng 03 năm thì tiến đến hôn nhân, sống chung với nhau từ năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường L, quận T, thành phố M theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 131, quyển số 02/2008, cấp ngày 12/9/2008. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng chung sống phường L, quận T, thành phố M khoảng 01 năm thì chuyển về số 521/96/18 (số cũ 95/25B) đường D – B, khu phố Đ4, phường A, thị xã D, tỉnh B sinh sống cho đến nay. Vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, không có lòng tin với nhau, anh V sống không có trách nhiệm với gia đình vì vậy mà thường xuyên xảy ra cãi nhau. Đến ngày 02/6/2016 thì anh V bỏ nhà đi, từ đó chúng tôi không còn sống chung với nhau. Năm 2018, chị V đã nộp đơn tại Tòa án thị xã D để yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt nơi cư trú đối với anh Mai Hùng V. Ngày 24/5/2018, Tòa án nhân dân thị xã D đã có quyết định số 05/2018/QĐST-VDS về việc thông báo tim kiếm người vắng mặt nơi cư trú của anh Mai Hùng V. Nơi cư trú cuối cùng của anh V: Số 521/96/18 (số cũ 95/25B) đường D – B, khu phố Đ 4, phường A, thị xã D, tỉnh B. Nay Chị V xác định không còn tình cảm với anh V nên yêu cầu được ly hôn với anh V.
Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có ba con chung tên Mai Hùng Anh T, sinh ngày 20/9/2009; Mai Hùng Anh T, sinh ngày 29/02/2012 và Mai Hùng Anh T, sinh ngày 03/10/2015, hiện nay các con đang sống cùng với mẹ nên chị V yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng ba con chung và theo đơn khởi kiện chị V yêu cầu anh Mai Hùng V thực hiện việc cấp dưỡng nuôi con 03 con chung mỗi tháng 15.000.000 đồng (mỗi người con 5.000.000 đồng/tháng) cho đến khi các con đủ 18 tuổi. Tại bản tự khai ngày 10/7/2019 và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn thay đổi yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 4.000.000 đồng, tổng cộng 12.000.000 đồng/tháng/03 người con.
Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày: Bị đơn sống không có trách nhiệm với gia đình và vợ con, nguyên đơn và bị đơn đã sống ly thân từ năm 2016 đến nay. Đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Bị đơn đã được Toà án thông báo tham gia tố tụng, tống đạt các văn bản tố tụng nhưng không đến Toà án làm việc, không cung cấp lời khai, không có yêu cầu phản tố nào, không cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã D, tỉnh B tham gia phiên tòa: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Bị đơn không chấp hành theo quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ vào Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định. Về nội dung vụ án: Nguyên đơn yêu cầu ly hôn và yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng 03 con chung là có cơ sở. Tuy nhiên, mức cấp dưỡng nguyên đơn yêu cầu là không phù hợp. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Bị đơn anh Mai Hùng V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa vào các ngày 12/8/2019 và ngày 30/8/2019 nhưng anh Mai Hùng V vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Mai Hùng V.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hồng V và anh Mai Hùng V tự nguyện sống chung với nhau vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường L, quận T, Thành Phố M theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 131, quyển số 02/2008, ngày 12/9/2008 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Chi V xác định vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, không có lòng tin với nhau, anh V sống không có trách nhiệm với gia đình vì vậy mà thường xuyên xảy ra cãi nhau. Anh, chị đã sống ly thân từ năm 2016 đến nay. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án và nhiều lần triệu tập anh V đến tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh V không có mặt. Điều này chứng tỏ tình cảm vợ chồng của anh chị đã thực sự không còn, cuộc sống vợ chồng không mang lại hạnh phúc cho nhau.
[2.2] Xét thấy mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Để đạt được mục đích, vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ và tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Việc anh V không quan tâm đến hòa giải đoàn tụ để hàn gắn quan hệ hôn nhân với chị V cho thấy tình trạng hôn nhân của vợ chồng chị đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó chị V yêu cầu ly hôn với anh V là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên có cơ sở chấp nhận.
[2.3] Về con chung: Chi Nguyễn Thị Hồng V yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng ba con chung. Tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét về mọi mặt và quyền lợi của con chưa thành niên. Quá trình tố tụng, anh Mai Hùng V vắng mặt và không có văn bản nào thể hiện ý chí mong muốn được nuôi con. Trong thời gian trước đây và hiện nay ba cháu Mai Hùng Anh T, Mai Hùng Anh T, Mai Hùng Anh T được chị V nuôi dưỡng và đảm bảo tốt về mọi mặt, tại bản tự khai ngày 28/6/2019 các cháu Mai Hùng Anh T và Mai Hùng Anh T đều có nguyện vọng được sống với mẹ, cháu T còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ. Vì vậy, việc giao các cháu Mai Hùng Anh T, Mai Hùng Anh T, Mai Hùng Anh T cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc sau khi ly hôn là phu hơp quy định tại Khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[2.4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị Hồng V yêu cầu anh Mai Hùng V cấp dưỡng nuôi ba con mỗi tháng 12.000.000 đông. Xét thấy việc cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ chung của cha mẹ đối với con chưa thành niên quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình nhưng hiện nay anh V không có mặt tại địa phương, mặt khác tại đơn trình bày ngày 10/7/2019, chị V xác định không biết được công việc, thu nhập và nơi ở hiện tại của anh V, do đó không có cơ sở chấp nhận yêu cầu cấp dưỡng nuôi ba con mỗi tháng 12.000.000 đồng của chị V. Tuy nhiên, căn cứ vào nhu cầu thực tế và mức sống trung bình tại địa phương nên cần buộc anh V cấp dưỡng nuôi mỗi người con 2.000.000 đồng/tháng/con cho đến khi các con đủ 18 tuổi.
[2.5] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Nguyên đơn không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.
[2.6] Từ những phân tích nêu trên, có cơ sở chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận một phần ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm nhân dân thị xã D, tỉnh B.
[2.7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn, bị đơn phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, 238, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng V đối với anh Mai Hùng V về việc ly hôn.
Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hồng V được ly hôn với anh Mai Hùng V (Theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 131, quyển số 02/2008 do Ủy ban nhân dân phường L, quận T, thành phố M cấp ngày 12/9/2008).
2. Về con chung: Giao ba con chung tên Mai Hùng Anh T, sinh ngày 20/9/2009; Mai Hùng Anh T, sinh ngày 29/02/2012 và Mai Hùng Anh T, sinh ngày 03/10/2015 cho chị Nguyễn Thị Hồng V tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng.
Buộc anh Mai Hùng V thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi 03 con mỗi tháng 6.000.000 đồng (2.000.000 đồng/tháng/cháu). Thời hạn cấp dưỡng kể từ khi Bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.
Kể từ ngày người được yêu cầu thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thi hành thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
Sau ly hôn, chị Nguyễn Thị Hồng V và anh Mai Hùng V có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con chung, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Trường hợp anh Mai Hùng V lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc chị Nguyễn Thị Hồng V nuôi con thì chị Vinh có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh V theo quy định của pháp luật. Vì quyền lợi hợp pháp của con, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con và vấn đề cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
3. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị Nguyễn Thị Hồng V không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Hồng V phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, được khấu trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0028391 ngày 16/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sư thị xã D, tỉnh B. Anh Mai Hùng V phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí cấp dưỡng nuôi con.
5. Nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án 98/2019/HNGĐ-ST ngày 30/08/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 98/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về