Bản án 36/2017/HNGĐ-ST ngày 20/09/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 36/2017/HNGĐ-ST NGÀY 20/09/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 20 tháng 09 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân quận K, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 131/2017/TLST-HNGĐ ngày 21/6/2017 về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 551/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 01/09/2017; Quyết định hoãn phiên tòa số 564/2017/QĐST-HNGĐ ngày 15/9/2017, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lương Thị H, sinh năm 1983,

Địa chỉ: Tổ L 3, phường N, quận K, thành phố Hải Phòng.  Có mặt.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn H, sinh năm 1978,

Địa chỉ: Tổ L 3, phường N, quận K, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 08/6/2017, tại bản tự khai, biên bản hòa giải và trong quá trình xét xử, nguyên đơn là chị Lương Thị H trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Phạm Văn H có đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện và được Ủy ban nhân dân phường N, quận K, thành phố Hải Phòng cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 16 tháng 9 năm 2002. Sau khi kết hôn chị và anh H chung sống tại tổ L 3, phường N, quận K, thành phố Hải Phòng, vợ chồng chung sống hòa thuận được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách vợ chồng không hợp, luôn bất đồng quan điểm, anh H thường xuyên uống rượu say về đánh đập vợ con, anh H không hỗ trợ kinh tế cho chị cũng như phụ giúp chị nuôi con. Mâu thuẫn vợ chồng mặc dù đã được hai bên gia đình động viên hòa giải nhưng không có kết quả; do mâu thuẫn vợ chồng, đầu năm 2017 chị và các con đã về nhà mẹ đẻ chị sinh sống, chị và anh H sống ly thân từ đó đến nay, trong thời gian sống ly thân anh H thỉnh thoảng có đến nơi chị và các con đang ở nhưng không lần nào anh động viên chị về đoàn tụ mà chỉ đến gây sự, chửi, đe dọa chị và các con. Nay chị xác định tình cảm giữa chị và anh H không còn, chị không thể tiếp tục chịu đựng và chung sống với anh H được nữa, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H.

Về con chung: Chị và anh Phạm Văn H đã có 02 con chung tên là Phạm Thị Hải A, sinh ngày 07/7/2003 và Phạm Thị Hải Y, sinh ngày 13/12/2008. Hiện nay chị ở cùng nhà bố mẹ đẻ chị tại xã C, huyện A, thành phố Hải Phòng, từ năm 2015 đến này chị làm việc tại công ty Cổ phẩn P Hải Phòng, có thu nhập bình quân 8.000.000 đồng/tháng, ngoài ra chị còn cấy 3 sào ruộng và được sự hỗ trợ, giúp đỡ của bố mẹ và anh chị em nhà chị. Hiện nay anh H thường xuyên say rượu, không tỉnh táo để nuôi dậy các con, từ khi chị và anh H sống ly thân đến nay các con vẫn ở cùng chị, chị nhận thấy chị có điều kiện và khả năng để nuôi dậy cả hai con nên chị xin được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung là Phạm Thị Hải A và Phạm Thị Hải Y đến khi trưởng thành và không yêu cầu anh H phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, công nợ chung: Chị Lương Thị H không yêu cầu Toà án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân quận K đã nhiều lần triệu tập hợp lệ đối với anh  Phạm Văn H nhưng anh H đều vắng mặt không có lý do nên Tòa án không tiến hành lấy được lời khai của anh H và không tiến hành hòa giải được. Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử và tống đạt hợp lệ đến lần thứ hai mà anh H vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

Tại bản tự trình bày cháu Phạm Thị Hải A và Phạm Thị Hải Y là con chung của chị H và anh H đều trình bày: Nếu bố mẹ ly hôn nguyện vọng của cháu Hải A và Hải Y xin được ở với mẹ vì mẹ có điều kiện để chăm sóc các cháu còn bố cháu thường xuyên say rượu, đánh đập, chửi bới các cháu nên các cháu rất sợ.

Tại biên bản xác minh, Hội trưởng Hội phụ nữ và Tổ trưởng Tổ dân phố - tổ L 3, phường N cung cấp: Chị Lương Thị H và anh Phạm Văn H có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường N năm 2002. Sau khi kết hôn chị H và anh H chung sống tại tổ L 3, phường N, quận K, thành phố Hải Phòng. Vợ chồng chị H và anh H chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh H không chịu làm ăn lo cho cuộc sống gia đình, thường xuyên say rượu về đánh đập vợ con dẫn đến vợ chồng thường xuyên đánh, cãi nhau. Đến đầu năm 2017 chị H cùng hai con đã về nhà ngoại sinh sống, cắt đứt mọi quan hệ về tình cảm cũng như kinh tế với anh H. Nay chị H có đơn xin ly hôn anh H, xét thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh H đã trầm trọng đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật. Về con chung: Chị H và anh H có 02 con chung là Phạm Thị Hải A, sinh năm 2003 và Phạm Thị Hải Y, sinh năm 2008. Về tài sản chung, công nợ chung: Tổ trưởng Tổ dân phố và Hội trưởng Hội phụ nữ không nắm rõ chị H và anh H có tài sản chung gì.

Tại biên bản xác minh ngày 07/9/2017, Trường tiểu học N, quận K, thành phố Hải Phòng cung cấp: Cháu Phạm Thị Hải Y có học lớp 3a4 năm học 2016 – 2017 tại trường tiểu học N, trong thời gian cháu Y học tại trường thì bố cháu là anh Phạm Văn H chưa khi nào đưa đón con đi học hay đi họp phụ huynh cho con, anh H cũng chưa bao giờ đóng góp các khoản học phí cho con; các khoản đóng góp cho Trường đều do mẹ cháu là chị H đóng góp.

Tại phiên tòa chị H vẫn giữ nguyên quan điểm như đơn khởi kiện, các bản tự khai và phiên hòa giải; chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H và xin được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung là Phạm Thị Hải A và Phạm Thị Hải Y đến khi trưởng thành, chị không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, công nợ chung của vợ chồng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận K tại phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Về cơ bản đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; đối với bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 227; Điều 228; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án để giải quyết vụ án: Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lương Thị H và anh Phạm Văn H; về con chung: Giao con chung là Phạm Thị Hải Anh và Phạm Thị Hải Yến cho chị H được trực tiếp nuôi dưỡng đến khi trưởng thành, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Phạm Văn H, tài sản chung, công nợ chung: Không xem xét giải quyết về tài sản chung, công nợ chung của vợ chồng. Về án phí: Chị Lương Thị H phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Ngày 08 tháng 6 năm 2017 chị Lương Thị H nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân quận K, chị Lương Thị H yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Văn H, sinh năm 1978, địa chỉ: Tổ L 3, phường N, quận K, thành phố Hải Phòng,  yêu cầu giải quyết về nuôi con khi ly hôn. Tranh chấp này được Tòa án nhân dân quận K thụ lý, giải quyết theo đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Anh Phạm Văn H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa theo đúng quy định tại Điều 196, Điều 208, Điều 220 Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng anh Phạm Văn H đều vắng mặt không có lý do, vì vậy căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là anh Phạm Văn H.

[3] Về hôn nhân: Chị Lương Thị H và anh Phạm Văn H đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được Uỷ ban nhân dân phường N, quận K, thành phố Hải Phòng cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 54 ngày 16/9/2002. Đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ theo quy định tại khoản 1 Điều 8, khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình.

Trong quá trình chung sống chị H và anh H đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, vợ chồng không quan tâm, chăm sóc nhau, không yêu thương, quý trọng nhau; anh H không có trách nhiệm với gia đình, với vợ con mà thường xuyên say rượu về đánh đập vợ con làm ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình, ảnh hưởng đến tâm lý của các con. Do mâu thuẫn vợ chồng chị H đã bỏ về nhà mẹ đẻ ở và sống ly thân anh H từ đầu năm 2017 đến nay. Trong thời gian sống ly thân, anh H không có biện pháp tháo gỡ những mâu thuẫn mà càng làm cho mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng hơn; quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần khuyên chị H rút đơn về đoàn tụ nhưng chị H cương quyết xin được ly hôn anh H; Tòa án nhiều lần triệu tập anh H để giải quyết việc chị H có đơn xin ly hôn anh và tiến hành hòa giải nhưng anh H đều vắng mặt không có lý do. Chứng tỏ tình cảm giữa chị H và anh H không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, hai bên cùng không có ý thức đoàn tụ, để mặc cho mâu thuẫn ngày càng trầm trọng và kéo dài. Tại phiên tòa chị H vẫn cương quyết xin ly hôn anh H, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận K đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho chị H được ly hôn anh H. Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Lương Thị H và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, phù hợp thực tế vụ kiện và phù hợp pháp luật cần được chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị Lương Thị H và anh Phạm Văn H có 02 con chung là Phạm Thị Hải A, sinh ngày 07/7/2003 và Phạm Thị Hải Y, sinh ngày 13/12/2008. Chị H hiện nay có nơi ở, công việc, thu nhập ổn định; từ khi chị H và anh H sống ly thân đến nay các con chung vẫn ở cùng chị H, chị H có nguyện vọng xin được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung đến khi trưởng thành và không yêu cầu anh H phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Anh H hiện nay không có việc làm, không có thu nhập ổn định, lại thường xuyên say rượu, thiếu trách nhiệm với gia đình và vợ con; các con chung là Phạm Thị Hải A và Phạm Thị Hải Y đều có nguyện vọng được ở với mẹ là chị Lương Thị H; Đại điện Viện kiểm sát đề nghị giao cả hai con chung cho chị H được trực tiếp nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy hai con chung của chị H và anh H đều là con gái, đang ở độ tuổi dậy thì cần có sự quan tâm, chăm sóc, dậy bảo của người mẹ, xét điều kiện hoàn cảnh của chị H và anh H, xét đề nghị của chị H, nguyện vọng của các con chung, đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát, việc giao cả hai con chung là  Phạm Thị Hải A và Phạm Thị Hải Y cho chị H được trực tiếp nuôi dưỡng đến khi trưởng thành là phù hợp pháp luật, phù hợp thực tế cần được chấp nhận. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Lương Thị H không yêu cầu anh Phạm Văn H phải cấp dưỡng nuôi con chung, do vậy tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Phạm Văn H.

[5] Về tài sản chung, công nợ chung: Chị Lương Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết về tài sản chung, công nợ chung của vợ chồng khi ly hôn. Nếu chị H và anh H có yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, công nợ chung thì sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[6]Về án phí: Chị Lương Thị H phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mực thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lương Thị H:

- Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lương Thị H và anh Phạm Văn H.

- Về con chung: Giao cho chị Lương Thị H được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung là Phạm Thị Hải A, sinh ngày 07/7/2003 và Phạm Thị Hải Y, sinh ngày 13/12/2008 đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Phạm Văn H. Không ai được ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

- Về tài sản chung, công nợ chung: Không xem xét giải quyết về tài sản chung, công nợ chung của chị Lương Thị H và anh Phạm Văn H khi ly hôn; nếu chị H và anh H có yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, công nợ chung thì sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

2. Về án phí: Chị Lương Thị H phải chịu tiền án phí dân sự ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là  300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0003430 ngày 21 tháng 6 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận K, thành phố Hải Phòng. Như vậy chị Lương Thị H đã nộp xong án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Lương Thị H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Phạm Văn H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

811
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2017/HNGĐ-ST ngày 20/09/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:36/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Kiến An - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về