TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 98/2018/HSST NGÀY 25/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sư thẩm thụ lý số: 86/2018/TLST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2018/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:
Họ và tên: Phạm Công H; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 03/11/1990;
Nơi cư trú: Số nhà 55, tổ dân phố 04, phường Mường T, thành phố Đ, tỉnh B. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không;
Trình độ văn hóa: 9/12 phổ thông; Con ông: Phạm Công Đ- sinh năm 1963 (Còn sống);
Con bà: Hoàng Thị H- sinh năm 1963 (Còn sống); Vợ, con: Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sư: Không. Bị tạm giữ từ ngày 06/6/2018, sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ ngày 06/6/2018 bị cáo H xuống bản Xôm, xã Thanh An, huyện B mục đích tìm mua heroine về sử dụng. Khi đến khu vực giữa bản Xôm, thì gặp và mua của một người phụ nữ tên Mai khoảng 30 tuổi, không biết lai lịch được một gói heroin với giá 250.000đ. Bị cáo cầm gói heroine mua được ở trong lòng bàn tay phải rồi đi bộ về nhà. Khi đi bộ ra đến đường quốc lộ 279, bị cáo vẫy xe và xin đi nhờ xe của một người đàn ông (bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ) về đến khu vực tổ 29, phường Mường T, thành phố Đ, thì bị cáo xuống xe, còn người đàn ông đó đi đâu bị cáo không biết. Khoảng 17 giờ 55 phút cùng ngày bị cáo đi bộ vào một quán nước mía ở vỉa hè. Tại đó, khi đang gọi nước mía để uống thì bị tổ công tác Công an thành phố Đ phát hiện, áp sát khống chế, bắt quả tang bị cáo H đã hất từ trong lòng bàn tay phải ra mặt đất phía trước, cách chỗ bị cáo bị khống chế khoảng 3m, 01 cục chất bột thể rắn, màu trắng, được gói ngoài bằng nilon màu hồng, nghi là heroine.
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 06/6/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ và kết luận giám định số 539/GĐ-PC54 ngày 13/6/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định của Phạm Công H là ma túy, loại heroine. Khối lượng heroine thu giữ là 0,3g.
Tại bản cáo trạng số 54/CT-VKSTPĐBP ngày 30/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã truy tố bị cáo Phạm Công H về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS, xử phạt bị cáo Phạm Công H 12 đến 15 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,25 gam heroine (vật chứng hoàn lại sau giám định), 01 mảnh nilon màu hồng. Áp dụng khoản 2 Điều 136/Bộ luật Tố tụng Hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo Phạm Công H không có lời bào chữa nào, nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ.
Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an thành phố Đ, điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi của bị cáo bị truy tố: Khoảng 17 giờ 55 phút, ngày 06/6/2018, tại tổ dân phố 29, phường Mường T, thành phố Đ, Phạm Công H đã có hành vi cất dấu trái phép 0,3 gam heroine, mục đích để sử dụng.
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 18 giờ 15 phút ngày 06/6/2018, biên bản niêm phong vật chứng, biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 06/6/2018, kết luận giám định số 539/GĐ-PC54 ngày 13/6/2018 của phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh B kết luận: Vật chứng thu giữ của bị cáo Phạm Công H là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,3 gam.
Do đó, có đủ cơ sở khẳng định, hành vi cất dấu trái phép chất ma túy của bị cáo, với mục đích để sử dụng là phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/Bộ luật Hình sự. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, Phạm Công H phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi phạm tội có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
Từ những phân tích trên khẳng định Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh B truy tố bị cáo Phạm Công H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là hoàn toàn đúng người, đúng tội. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đề nghị xử phạt bị cáo với mức án từ 12 đến 15 tháng tù giam, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo Phạm Công H là người nghiện ma túy, trong quá trình phạm tội, khi bị cơ quan công an phát hiện bị cáo có dấu hiệu hoạt động về ma túy, bị cáo đã có hành vi hất gói ma túy đi nhằm để phi tang, bị cáo nhận thức rõ hành vi cất dấu trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, vì vậy mức hình phạt mà đại diện viện kiểm sát đề nghị là chưa phù hợp so với hành vi phạm tội của bị cáo, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[3]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.Tuy nhiên, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bản thân bị cáo là người nghiện ma túy. Vì vậy, cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo là hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, để bị cáo có điều kiện cai nghiện, đồng thời để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội.
[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS, thì ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, điều kiện kinh tế khó khăn. Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5]. Bị cáo khai nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là mua của một người phụ nữ tên là Mai, khoảng 30 tuổi ở bản Xôm, xã Thanh An và người đàn ông khoảng 40 tuổi, cho bị cáo đi nhờ xe từ bản Xôm, xã Thanh An về khu vực tổ 29, phường Mường T nhưng bị cáo không biết họ tên, địa chỉ của những người này, cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6]. Vật chứng: 0,25 gam heroine (vật chứng còn lại sau giám định) là vật nhà nước cấm tàng trữ, 01 mảnh nilon màu hồng không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia kèm sim và 20.000đ (hai mươi nghìn đồng) quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội, ngày 19/8/2018 cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trao trả số tài sản trên cho người được bị cáo ủy quyền nhận hộ là bà Hoàng Thị H (là mẹ đẻ của bị cáo). Xét việc trao trả này của Cơ quan điều tra là có căn cứ pháp luật, nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.
[7]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Tuyên bố bị cáo Phạm Công H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
- Xử phạt bị cáo Phạm Công H 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (06/6/2018).
2. Vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47/Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy 0,25 gam Heroine (là vật chứng còn lại sau giám định), 01 mảnh nilon màu hồng (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/8/2018 giữa Công an thành phố Đ và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh B).
3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (25/10/2018)
Bản án 98/2018/HSST ngày 25/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 98/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về