Bản án 98/2018/HS-ST ngày 12/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 98/2018/HS-ST NGÀY 12/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 11 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 94/2018/TLST-HS ngày 30 tháng 10 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số101/2018/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

TRẦN THANH Đ, sinh năm: 1982 tại tỉnh Bến Tre; Nơi cư trú: Số 26D, ấp B, xã N, thành phố BT, tỉnh Bến Tre; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn B (đã chết) và bà Trần Thị M, sinh năm: 1948; Vợ: Phạm Thúy N, sinh năm: 1992; Có 01 người con sinh năm 2010; Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị cáo bị bắt truy nã, tạm giữ từ ngày 25/7/2018, tạm giam ngày 28/7/2018. (Có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Phan Ngọc H, sinh năm: 1976; Nơi cư trú: Số 14/2, khu phố H, Phường M, thành phố BT, tỉnh Bến Tre. (Vắng mặt)

- Người chứng kiến: Lê Văn H, sinh năm: 1955;

Nơi cư trú: Số 284/2, khu phố H, Phường B, thành phố BT, tỉnh Bến Tre.(Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ ngày 08/4/2018, Trần Thanh Đ đến khu vực cầu M phía xã M, thành phố BT, tỉnh Bến Tre gặp một người bạn tên Thái (không rõ họ và địa chỉ cụ thể). Tại đây, Thái cho Đ 01 gói ma túy đá, Đ lấy ra một ít cùng Thái sử dụng, số ma túy còn lại Đ cất giấu vào bóp da, bỏ vào túi quần phía sau bên phải của Đ đang mặc với mục đích để dành sử dụng rồi sau đó đến tiệm game bắn cá ở xã M, thành phố BT, tỉnh Bến Tre chơi game. Đến khoảng 03 giờ 20 phút ngày 09/4/2018, Đ gặp Phan Ngọc H và nhờ H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave, màu xanh– trắng - đen, không có biển số chở Đ đi tìm một người bạn. Khi đến đoạn thuộc khu phố S, phường P, thành phố BT, tỉnh Bến Tre thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện và thu giữ tang vật.

Vật chứng thu giữ:

- Thu trong bóp da để trong túi quần phía sau bên phải của Đ đang mặc: 01 túi nylon màu trắng, hàn kín, bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy. (Sau khi thu giữ được niêm phong trong phong bì có các chữ ký và ghi tên Trần Thanh Đ, Phan Ngọc H, Lê Văn H, Dương Văn N, Phan Nghĩa T và hình dấu tròn màu đỏ của Công an phường P, thành phố BT, tỉnh Bến Tre). 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave, màu xanh–trắng-đen, không có biển số, số khung: RNOWCH1N061N0421, số máy: VDGZS152FMHN03004215. Ngoài ra, lực lượng Công an còn thu giữ của Trần Thanh Đ:

- 01 khẩu súng nhựa màu đen và 03 viên đạn bằng nhựa màu đen.

- 01 cây gậy bằng kim loại có 03 đoạn.

Theo Kết luận giám định số 1725/C54B ngày 04/5/2018 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 0,2153 gam, loại: Methamphetamine.

Theo Kết luận giám định số 3953/C09B ngày 08/10/2018 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- 01 khẩu súng nhựa màu đen và 03 viên đạn bằng nhựa màu đen là súng bắn điện, không rõ nơi sản xuất. Súng và đạn nêu trên không phải vũ khí quân dụng và không có tính sát thương nguy hiểm như vũ khí quân dụng.

- 01 cây gậy bằng kim loại có 03 đoạn là công cụ hỗ trợ.

Tại bản cáo trạng số 99/CT-VKSTPBT ngày 29 tháng 10 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre đã truy tố bị cáo Trần Thanh Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Kiểm sát viên tham gia phiên toà giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo Trần Thanh Đ từ 01 năm đến 01 năm 6 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 khẩu súng nhựa màu đen và 03 viên đạn bằng nhựa màu đen; Giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave, màu xanh–trắng-đen, không có biển số, số khung: RNOWCH1N061N0421, số máy: VDGZS152FMHN03004215 để xác minh làm rõ nguồn gốc và xử lý theo thẩm quyền; Giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre 01 cây gậy bằng kim loại có 03 đoạn để xử lý theo thẩm quyền. Về hình phạt bổ sung: đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo Trần Thanh Đ có lời khai vào khoảng 15 giờ ngày 08/4/2018, bị cáo gặp người bạn tên Thái (không rõ lai lịch) tại khu vực cầu M ở xã M, thành phố BT, tỉnh Bến Tre và được Thái cho 01 gói ma túy đá để sử dụng. Sau khi có được ma túy, bị cáo lấy ra một ít cùng Thái sử dụng, phần còn lại bị cáo cất giấu vào trong bóp da và bỏ vào túi quần phía sau bên phải, sau đó bị cáo đến chơi game bắn cá tại tiệm game ở xã M. Đến khoảng 03 giờ 20 phút ngày 09/4/2018, bị cáo nhờ Phan Ngọc H điều khiển xe mô tô đến phường P, thành phố BT, tỉnh Bến Tre để tìm người bạn, khi đến khu vực đường N thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện thu giữ gói ma túy. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên sơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đượctranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Bến Tre, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Bị cáo Trần Thanh Đ có lời khai tại phiên tòa là vào khoảng 15 giờ ngày08/4/2018, bị cáo gặp người bạn tên Thái (không rõ lai lịch) tại khu vực cầu M ở xã M, thành phố BT, tỉnh Bến Tre và được Thái cho 01 gói ma túy đá để sử dụng. Sau khi có được ma túy, bị cáo lấy ra một ít cùng Thái sử dụng, phần còn lại bị cáo cất giấu vào trong bóp da và bỏ vào túi quần phía sau bên phải, sau đó bị cáo đến chơigame bắn cá tại tiệm game ở xã M. Đến khoảng 03 giờ 20 phút ngày 09/4/2018, bị cáo nhờ Phan Ngọc H điều khiển xe mô tô đến phường P, thành phố BT, tỉnh BếnTre để tìm người bạn, khi đến khu vực đường N thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện thu giữ gói ma túy. Lời khai này phù hợp với biên bản phạm pháp quả tang ngày 09/4/2018, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người chứng kiến, phù hợp với kết quả giám định của cơ quan Kỹ thuật hình sự Bộ công an tại Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả giám định 01 gói thu giữ trong bóp da của bị cáo nghi là chất ma túy được kết luận là chất Methamphetamine, có khối lượng 0,2153 gam. Hành vi của bị cáo cất giấu ma túy để sử dụng theo quy định đó là hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

[3] Bị cáo Trần Thanh Đ là người có đủ năng lực nhận biết việc cất giấu ma túy là bị pháp luật cấm, bị cáo cất giấu ma túy để sử dụng nhằm thỏa mãn cơn nghiện. Hành vi đó đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây tác động xấu đến tình hình an ninh trật tự nơi bị cáo thực hiện tội phạm, nguy cơ phát sinh các tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, gây tâm lý bất an trong quần chúng nhân dân.

[5] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự,thấy rằng: Mặc dù nhân thân được xác định là chưa có tiền án tiền sự, nhưng qua xem xét quá trình hoạt động của bản thân cho thấy bị cáo đã từng bị Tòa án kết án về tội cướp giật tài sản. Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có người thân tham gia cách mạng được tặng thưởng huân chương theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Căn cứ vào nhân thân, tính chất mức độ và hậu quả do hành vi bị cáo gây ra, xét thấy việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là điều cần thiết nhằm cải tạo giáo dục bị cáo trở thành công dân lương thiện có ích cho xã hội và có tác dụng phòng ngừa chung.

[6] Hình phạt bổ sung: Xét về hoàn cảnh kinh tế, tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, xét thấy áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo là không cần thiết nên không áp dụng.

[7] Lời phát biểu luận tội của kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo Trần Thanh Đ về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt đề nghị áp dụng là phù hợp với quy định nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave, màu xanh – trắng - đen, không có biển số, số khung: RNOWCH1N061N0421, số máy: VDGZS152FMHN03004215 hiện chưa rõ nguồn gốc nên giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre xác minh làm rõ nguồn gốc và xử lý theo thẩm quyền.

Đối 01 khẩu súng nhựa màu đen và 03 viên đạn bằng nhựa màu đen qua kết quả giám định không phải là vũ khí quân dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 cây gậy bằng kim loại có 03 đoạn qua kết quả giám định là công cụ hỗ trợ nên giao cho Công an thành phố Bến Tre xử lý theo thẩm quyền. Đối với chất ma túy cơ quan giám định đã sử dụng hết vào việc giám định không hoàn lại nên không xử lý.

 [9] Đối với hành vi tàng trữ công vụ hỗ trợ, do bị cáo chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều 306 Bộ luật Hình sự và cũng chưa bị kết án về tội này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre lập hồ sơ đề nghị Ủy ban nhân dân thành phố Bến Tre ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với bị cáo là phù hợp. Đối với Phan Ngọc H không biết bị cáo Đ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên không truy cứu trách nhiệm. Đối với đối tượng tên Thái, do không rõ họ và địa chỉ cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không mời làm việc được, khi nào làm việc được sẽ xử lý sau.

 [10] Về án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo Trần Thanh Đ phải nộp theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo TrầnThanh Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo: Trần Thanh Đ 01 (Một) năm 6 (Sáu) tháng tù; Thời hạn tù tính từ ngày 25/7/2018.

2. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) khẩu súng nhựa màu đen và 03 (Ba) viên đạn bằng nhựa màu đen (được niêm phong trong thùng giấy có chữ ký, ghi tên của cánbộ điều tra Phan Nghĩa T, người chứng kiến Hoàng Văn T).

- Giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave, màu xanh–trắng-đen, không có biển số, số khung: RNOWCH1N061N0421, số máy: VDGZS152FMHN03004215 để xác minh làm rõ nguồn gốc và xử lý theo thẩm quyền. 

- Giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre 01 (Một)cây gậy bằng kim loại có 03 đoạn để xử lý theo thẩm quyền.(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/11/2018, hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bến Tre quản lý).

3. Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo Trần Thanh Đ phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Bị cáo được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn (15) mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn (15) mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 98/2018/HS-ST ngày 12/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:98/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về