Bản án 98/2018/HS-ST ngày 06/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 98/2018/HS-ST NGÀY 06/07/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 7 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 93/2018/TLST-HS ngày 29 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 109/2018/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:

Lê Văn T, sinh ngày 25 tháng 01 năm 1978 tại thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 29 phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; chỗ ở: Thôn P, xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Đ và bà Nông Thị L; bị cáo có vợ là Hoàng Thị T (đã ly hôn năm 2015) và 01 con sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị xét xử, xử phạt vi phạm hành chính và xử lý kỷ luật lần nào; bị bắt tạm giữ ngày 05/4/2018, tạm giam từ ngày 08/4/2018 đến nay. Có mặt.

Người chứng kiến: Ông Hoàng Văn H. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 45 phút, ngày 05/4/2018 Tổ công tác Công an phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đang làm nhiệm vụ tại khu vực bãi để xe của nhà hàng N, phường T, thành phố L đã phát hiện bắt quả tang Lê Văn T có dấu hiệu liên quan đến ma túy. Thu giữ dưới nền nhà vệ sinh, cạnh chân Lê Văn T 01 gói giấy nhỏ bên trong chứa chất bột màu trắng. Tổ công tác tiến hành lập biên bản và đưa người cùng tang vật thu được về cơ quan điều tra làm rõ.

Tại bản kết luận giám định số 140/KLTT-PC54, ngày 07/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng gửi giám định là chất ma túy heroine, có khối lượng 0,392 gam (đã trừ bì).

Tại bản cáo trạng số: 95/CT-VKSTPLS, ngày 29/5/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã quyết định truy tố bị cáo Lê Văn T về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn T khai nhận: Khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 05/4/2018, Lê Văn T đi xe ôm từ thôn P, xã H, thành phố L đến khu vực Bưu điện tỉnh Lạng Sơn, thuộc đường L, phường V, thành phố L tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây Lê Văn T gặp một người nam thanh niên khoảng 30 tuổi không quen biết, bị cáo đưa cho người nam thanh niên này 100.000 đồng nhờ đi mua hộ 01 gói ma túy. Người nam thanh niên cầm tiền và hẹn Lê Văn T ra khu vực bãi để xe của nhà hàng N trên đường T, phường T, thành phố L đợi. Một lúc sau người thanh niên này quay lại bãi để xe của nhà hàng N, cùng bị cáo đi vào khu nhà vệ sinh của bãi để xe và đưa cho bị cáo 01 gói ma túy. Lê Văn T cầm gói ma túy trên tay đang chuẩn bị sử dụng thì bị công an phát hiện, Lê Văn T lo sợ nên đã thả gói ma túy xuống nền nhà vệ sinh, còn người nam thanh niên mua ma túy cho Lê Văn T bỏ chạy.

Qúa trình điều tra, người làm chứng ông Hoàng Văn H khai: khoảng 10 giờ 45 phút, khi đang đi bộ tại khu vực bãi để xe của nhà hàng N, ông được lực lượng công an mời chứng kiến việc kiểm tra 02 người nam thanh niên vừa đi vào khu nhà vệ sinh của bãi để xe. Khi lực lượng công an vào kiểm tra thì một người nam thanh niên bỏ chạy, lực lượng công an phát hiện dưới chân người nam thanh niên đứng lại có 01 gói nhỏ bên trong chứa chất bột màu trắng. Người nam thanh niên khai tên Lê Văn T, sinh năm 1978, còn gói nhỏ dưới chân Lê Văn T khai là ma túy hêroine vừa mua đang chuẩn bị sử dụng thì bị bắt.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lê Văn T từ 15 (mười lăm) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo vì bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,349 gam ma túy heroine (phần hao hụt do trích làm mẫu giám định) được đựng trong 01 phong bì niêm phong sau giám định. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng. Các quyết định, hành vi tố tụng đã thực hiện là hợp pháp. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có khiếu nại đối với quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Lê Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai bị cáo đã khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai người làm chứng và những chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ, có đủ căn cứ để khẳng định: Khoảng 10 giờ 45 phút ngày 05/4/2018, tại khu vực bãi để xe của nhà hàng N, phường T, thành phố L bị cáo Lê Văn T đã có hành vi tàng trữ 0,392 gam ma túy Heroine. Với hành vi trên, việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn đối với bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, vì ma túy là loại độc dược gây nghiện, rất có hại đối với sức khỏe con người, do Nhà nước độc quyền quản lý.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo không có.

[5] Về nhân thân: Bị cáo phạm tội lần này là lần đầu, bản thân chưa có tiền án tiền sự, do lối sống buông thả nên đã sớm lao vào con đường sử dụng chất ma túy.

[6] Trên cơ sở xem xét, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử sẽ quyết định mức hình phạt phù hợp để giáo dục bị cáo và đảm bảo tính ren đe, phòng ngừa chung.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo Lê Văn T không có tài sản riêng, thu nhập không ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Xét lời luận tội và mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[9] Đối với người nam thanh niên mua ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết rõ lai lịch nên cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ.

[10] Về xử lý vật chứng: Đối với 0,349 gam ma túy heroine (phần hao hụt do trích làm mẫu giám định) được niêm phong trong 01 phong bì thư hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

[11] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lê Văn T 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 05/4/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Lê Văn T.

3. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,349 gam ma túy heroine (phần hao hụt do trích làm mẫu giám định) được niêm phong trong 01 phong bì thư.

(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 25/5/2018).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Lê Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 98/2018/HS-ST ngày 06/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:98/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về