Bản án 97/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 97/2020/HS-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 94/2020/TLST- HS ngày 22 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 100/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Thái L, sinh ngày 06/02/1990, tại tỉnh Đồng Nai; tên gọi khác:

Không; Nơi cư trú: xã Phú L, huyện V, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn N, sinh năm 1953 và bà Trần Thị T, sinh năm 1959; gia đình có 03 anh em, bị cáo là con út và chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Ngày 26/8/2009, bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu tuyên phạt 09 tháng tù, thời hạn tính từ ngày 14/3/2009 về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số: 80/2009/HSST, bị cáo đã chấp hành xong các nghĩa vụ của bản án.

- Ngày 28/10/2009, bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” tại Bản án số: 100/2009/HSST. Tổng hợp với hình phạt 09 tháng tù tại Bản án số: 80/2009/HSST ngày 26/8/2009, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 04 năm 03 tháng tù; án phí phải nộp 200.000 đồng, bồi thường cho anh Nguyễn Trung H 924.500 đồng, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Ngày 01/02/2010, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm tuyên phạt Nguyễn Thái L 03 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” tại Bản án số: 26/2010/HSPT. Tổng hợp hình phạt 09 tháng tại Bản án số: 80/2009/HSST ngày 26/8/2009, buộc bị cáo chấp hành chung là 04 năm 03 tháng tù, thời hạn tính từ ngày 14/3/2009. Bị can chấp hành xong hình phạt ngày 14/12/2012; bị cáo đã thực hiện xong án phí, đối với phần bồi thường dân sự cho đến nay anh H chưa có đơn yêu cầu thi hành án, theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự thì thời hiệu yêu cầu thi hành án đã hết.

- Ngày 12/9/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu tuyên phạt 01 năm 04 tháng tù, thời hạn tính từ ngày 21/6/2013 về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số: 77/2013/HSST; buộc bị cáo bồi thường cho anh Trần Việt K 900.000 đồng; bị cáo đã thực hiện xong án phí, đối với phần bồi thường dân sự cho đến nay anh Kiều chưa có đơn yêu cầu thi hành án, theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự thì thời hiệu yêu cầu thi hành án đã hết.

- Ngày 24/01/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu tuyên phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số: 08/2014/HSST. Tổng hợp hình phạt 01 năm 04 tháng tại Bản án số: 77/2013/HSST ngày 12/9/2013, buộc bị cáo chấp hành chung là 02 năm 04 tháng tù, thời hạn tính từ ngày 21/6/2013. Bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 21/7/2015.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 19/6/2020 đến ngày 27/6/2020 được hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Bị cáo bị bắt tạm giam lại ngày 18/8/2020 cho đến nay, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Vĩnh Cửu; bị cáo có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Trần Thị Ngọc G, sinh năm 1991; nơi cư trú: Ấp 1, xã Phú L, huyện V, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 17 giờ ngày 18/6/2020, Nguyễn Thái L điều khiển xe mô tô biển số 60B9-508.21 (mượn của bạn tên G) đi đến khu vực chợ khu phố 1, thị trấn V, huyện V mua 03 tép ma túy của một đối tượng tên T (không rõ họ, địa chỉ) với giá 300.000 đồng về nhà cất giấu.

Khong 11 giờ 30 phút ngày 19/6/2020, L điều khiển xe mô tô biển số 60B9-508.21 mang theo ma túy đi từ nhà đến vườn điều thuộc xã Phú L, huyện V để sử dụng. Trên đường đi L bị lực lượng Công an xã Phú L và Công an huyện V tuần tra trên tuyến đường ĐT 761 thuộc ấp Lý Lịch 1, xã Phú L, huyện V kiểm tra, phát hiện trong túi quần sọc phía trước bên phải của L có 03 ống nhựa màu trắng hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể màu trắng (nghi là ma túy), L khai số ma túy trên L mua về để sử dụng.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 03 ống nhựa màu trắng hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể màu trắng (nghi là ma túy) được niêm phong theo quy định; số tiền 200.000 đồng.

- 01 xe mô tô biển số 60B9-508.21, chiếc xe mô tô này, ngày 18 và 19/6/2020, L mượn của bà Trần Thị Ngọc G (bạn gái L), sinh năm 1991, ngụ tại ấp 1, xã Phú L, huyện V, bà G không biết L sử dụng xe trên phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã xử lý giao trả lại cho bà G.

- 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A11, màu đen và 01 bóp da. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã xử lý giao trả cho bị cáo.

Tại Kết luận giám định số: 1272/KLGĐ- PC09 ngày 25/6/2020 của Giám định viên Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu chất bột màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là 0,1246 gam, loại Heroin (Heroine). Mẫu còn lại sau giám định có khối lượng 0,0985 gam trong niêm phong số 1272/KLGĐ-PC09.

Bản Cáo trạng số: 97/CT-VKSVC ngày 21/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu truy tố bị cáo Nguyễn Thái L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu trình bày luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Thái L từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù; về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong mẫu vật còn lại sau giám định ký hiệu số 1272/KLGĐ-PC09 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đồng Nai, trả lại cho bị cáo số tiền 200.000 đồng do không liên quan đến tội phạm; về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của bị cáo: Bị cáo không phát biểu tranh luận và không trình bày lời bào chữa.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, trong thời gian tạm giam đã thấy rất ăn năn hối cải; bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thái L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai và các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra vụ án, đã có đủ cơ sở xác định: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 19/6/2020, trên đường đi từ nhà đến vườn điều thuộc ấp Lý Lịch 2, xã Phú L, L đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Heroine bên trong túi quần sọc phía trước bên phải thì bị lực lượng Công an xã Phú L và Công an huyện V tuần tra trên tuyến đường ĐT 761 thuộc ấp Lý Lịch 1, xã P, huyện V kiểm tra, phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Bị cáo L khai nhận số ma túy trên là của bị cáo mua về cất giấu để sử dụng.

Tại Kết luận giám định số: 1272/KLGĐ- PC09 ngày 25/6/2020 của Giám định viên Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu chất bột màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là 0,1246 gam, loại Heroin (Heroine).

Bị cáo đồng ý với bản kết luận giám định về ma túy và không có ý kiến gì thêm.

Đối chiếu lời khai của bị cáo tại phiên tòa với lời khai của người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu mà Cơ quan điều tra đã thu thập, nhận thấy có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Thái L đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Bị cáo biết ma túy là chất gây nghiện được Nhà nước độc quyền quản lý về việc cất giữ, vận chuyển cũng như mua bán các loại chất này; tuy nhiên bản thân muốn sử dụng ma túy nên bị cáo đã mua về để cất giữ mà sử dụng. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất gây nghiện của Nhà nước mà còn là nguyên nhân phát sinh tội phạm khác như trộm cắp, cướp giật… Bị cáo có nhân thân xấu, nhiều lần bị Tòa án xử phạt về tội trộm cắp tài sản và cố ý gây thương tích, nhưng bị cáo không chịu tu dưỡng bản thân, trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Do vậy cần phải xử phạt bị cáo một mức án tương xứng để bị cáo lấy đó làm bài học cho mình mà tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, sửa chữa sai lầm, đồng thời cũng để giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung tội phạm.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xem xét tình tiết giảm nhẹ nêu trên để quyết định hình phạt cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung, theo qui định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Do bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập và không có tài sản, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong mẫu vật còn lại sau giám định ký hiệu số 1272/KLGĐ-PC09 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; trả lại cho bị cáo số tiền 200.000 đồng do không liên quan đến tội phạm. Đối với 01 xe mô tô biển số 60B9-508.21, bị cáo mượn của bà Trần Thị Ngọc G, bà G không biết L sử dụng xe trên phạm tội; 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A11, màu đen và 01 bóp da của bị cáo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã xử lý giao trả lại cho chủ sở hữu là bà G và bị cáo là đúng quy định của pháp luật.

[7] Đối với đối tượng tên T (không rõ họ, địa chỉ) đã có hành vi bán trái phép chất ma túy cho bị cáo, do không rõ đặc điểm nhân thân của tên T nên Công an huyện V không có căn cứ để xác minh xử lý là phù hợp.

[8] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 135, Điều 136, Điều 327, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thái L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thái L 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/8/2020, nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ trước từ ngày 19/6/2020 đến ngày 27/6/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong mẫu vật còn lại sau giám định ký hiệu số 1272/KLGĐ-PC09 ngày 25/6/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; trả lại cho bị cáo số tiền 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) (Theo biên lai thu tiền số 0001960 ngày 21/10/2020 và biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 21/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai).

3. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 97/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:97/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về