Bản án 97/2020/HS-ST ngày 08/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ - TP ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 97/2020/HS-ST NGÀY 08/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 103/2020/TLST-HS ngày 20.7.2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 103/2020/QĐXXST-HS ngày 24.8.2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đỗ Trọng H; sinh ngày 20.5.1977 tại tỉnh Nam Định; Nơi cư trú: Tổ 54 Phường Th. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đỗ Khắc H1 (chết) và bà Nguyễn Thúy Th (sinh năm 1953) còn sống. Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Có vợ là Lê Thị H2 (sinh năm 1984) và hai con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2004.

Tiền án: Ngày 23.6.2008 bị Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xử phạt 42 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 33/2008/HSST. Chưa chấp hành xong phần án phí hình sự sơ thẩm.

Tiền sự: Ngày 02.3.2020 bị Công an phường Thanh Khê Tây, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, bằng hình thức phạt tiền, tại Quyết định số 130/QĐ-XPVPHC.

Bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ ngày 17.4.2020; tạm giam ngày 26.4.2020, hiện đang tạm giam. Có mặt tại phiên toà.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Trần Mạnh C, sinh năm 1975; Địa chỉ: Thôn G, xã L, thành phố 1 - 1 - Nam Định, tỉnh Nam Định (vắng mặt).

+ Anh Nguyễn Hữu M, sinh năm 1980; Địa chỉ: Thôn Đ, xã H, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng (vắng mặt).

- Người làm chứng: Ông Nguyễn D, sinh năm 1965; Địa chỉ: Tổ 3 phường Thạc Gián, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Đỗ Trọng H bị Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 17.4.2020 Đỗ Trọng H gặp Trần Mạnh C tại chân cầu vượt ngã ba Huế, thành phố Đà Nẵng. Lúc này, H nhờ C chở đi có việc thì C đồng ý và điều khiển xe mô tô Sirius màu bạc, BKS 37B1-35723 chở H đến kiệt gần bờ hồ đường Hàm Nghi, thành phố Đà Nẵng (không rõ địa chỉ cụ thể). C đứng chờ ở ngoài còn H đi bộ vào kiệt gặp và mua của một người thanh niên tên T (không rõ nhân thân lai lịch) hai gói ma túy đá với giá 300.000đ rồi cất giấu vào túi quần phía sau bên phải mình đang mặc và ra xe H chở C đi về, C không biết việc H mua và cất giấu ma túy trong người. Khi đến trước nhà số 142 đường L, phường Thạc Gián, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng thì bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Thanh Khê phối hợp với lực lượng 911- Công an thành phố Đà Nẵng kiểm tra, phát hiện bắt quả tang.

Kết quả thử test nước tiểu thì Đỗ Trọng H và Trần Mạnh C đều dương tính với chất ma túy.

Tang vật, tài sản thu giữ:

- 02 gói ni lông chứa tinh thể màu trắng H khai là ma túy đá được niêm phong, ký hiệu là G.

- 01 xe máy hiệu Yamaha Sirius màu bạc, BKS 37B1-357.23, số máy 3531-077264, số khung RL CS33106Y077264.

- 01 Điện thoại di động Nokia màu đen có số IMEI 357709105980887, điện thoại gắn sim 1 số 0935494533, gắn sim 2 số 0905502720.

- 02 Điện thoại di động hiệu OPPO đều màu xanh một cái có số IMEI 868573029678973, một cái có số IMEI 867287026808134.

- 01 Điện thoại di động hiệu Gionee có số IMEI 8679810104027, có gắn sim số 0906423031.

Bản kết luận giám định số 125/GĐ-MT ngày 22.4.2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận:

Tinh thể màu trắng trong hai gói ni lông niêm phong ký hiệu G gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng tinh thể G: 0,208 gam”.

Với nội dung trên, tại cáo trạng số 105/CT-VKS-TK, ngày 20.7.2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo 2 - 2 - Đỗ Trọng H về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố nhà nước tại phiên tòa giữ nguyên nội dung quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đỗ Trọng H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Đỗ Trọng H từ 24 đến 30 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tịch thu tiêu hủy ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 bì niêm phong số 125/GĐ-MT, ngày 22.4.2020 có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng.

- Đối với 02 điện thoại di động: 01 (một) điện thoại di động Nokia màu đen có số IMEI 357709105980887, điện thoại gắn sim 1 số 0935494533, gắn sim 2 số 0905502720 và 01 (một) điện thoại di động OPPO màu xanh có số IMEI 868573029678973, thu giữ của bị cáo H không liên quan đến vụ án nên đề nghị tuyên trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục quy trữ để đảm bảo cho nghĩa vụ thi hành án.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Gionee có số IMEI 8679810104027, có gắn sim số 0906423031 và 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh có số IMEI 867287026808134 đã trả lại cho chủ sở hữu Trần Mạnh C là có căn cứ nên Viện kiểm sát không đề cập đến.

- Xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, màu bạc mang biển kiểm soát: 37B1-357.23, số máy 3531-077264, số khung RL CS33106Y077264 là của bà Nguyễn Thị H2 làm chủ sở hữu. Sau khi mua xe bà H2 cho ông Nguyễn Hữu M mượn để làm phương tiện đi lại, ông M cho Trần Mạnh C mượn để đi công việc. Ông M không biết việc H nhờ C dùng xe này để chở đi mua ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê đã trả lại xe cho bà H2 do ông M là người được bà H ủy quyền nhận thay là có căn cứ.

- Đối với Trần Mạnh C khi H nhờ chở đi có việc thì C đồng ý, không biết việc H đi mua ma túy, không góp tiền mua ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với C là có căn cứ.

Đi với người thanh niên tên T bán ma túy cho H không rõ nhân thân lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

Đỗ Trọng H có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy , Cơ quan Công an quận Thanh Khê đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với H là có căn cứ.

Tại phiên tòa bị cáo Đỗ Trọng H khai nhận hành vi phạm tội như Cáo 3 - 3 - trạng nêu và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Quá trình điều tra cũng như tranh tụng tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Trọng H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Căn cứ vào biên bản phạm tội quả tang và lời khai nhận tội của bị cáo, lời khai của người liên quan, người làm chứng phù hợp với các chứng cứ, tài liệu điều tra thu thập đầy đủ có tại hồ sơ vụ án, xác định: Khoảng 18 giờ 30 ngày 17.4.2020, tại trước nhà số 142 đường Lý Thái Tông, phường Thạc Gián, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Thanh Khê phối hợp với lực lượng 911- Công an thành phố Đà Nẵng kiểm tra, phát hiện bắt quả tang Đỗ Trọng H có hành vi tàng trữ trái phép 0,208 gam ma túy loại Methamphetamine.

[3] Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Đỗ Trọng H đã phạm vào tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự “Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam” như cáo trạng số 105/CT-VKS-TK, ngày 20.7.2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quy định của nhà nước về quyền quản lý các chất ma tuý, gây mất ổn định tình hình trật tự trị an xã hội, ảnh hưởng đến sức khoẻ, lao động, học tâp của con người, đây là loại tội phạm nghiêm trọng, gây nguy hại lớn và là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội, là mầm mống phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Chính tác hại đó mà pháp luật nghiêm cấm và nghiêm khắc trừng trị loại tội phạm này.

[5] Xét về những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo đã có một tiền án vào ngày 23.6.2008 bị Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xử phạt 42 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 33/2008/HSST, chưa chấp hành xong phần án phí hình 4 - 4 - sự sơ thẩm nên cần phải tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự và bị cáo cũng đã có một tiền sự bị Công an phường Thanh Khê Tây, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, bằng hình thức phạt tiền, tại Quyết định số 130/QĐ-XPVPHC, ngày 02.3.2020. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo và cần phải cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo giáo dục trở thành một công dân lương thiện.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định "Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản" Theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động phổ thông, thu nhập không ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng thêm hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.

[7] Từ những phân tích trên, xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê về tội danh và các điều luật áp dụng là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về xử lý vật chứng: Ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong phong 01 bì niêm phong số 125/GĐ-MT, ngày 22.4.2020 có đóng dấu giáp lai của phòng kỷ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng, xét thấy đây là vật cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên cần tiêu hủy.

01 (một) điện thoại di động Nokia màu đen có số IMEI 357709105980887, điện thoại gắn sim 1 số 0935494533, gắn sim 2 số 0905502720 và 01 (một) điện thoại di động OPPO màu xanh có số IMEI 868573029678973, thu giữ của bị cáo H không liên quan đến vụ án nên cần tuyên trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục quy trữ để đảm bảo cho nghĩa vụ thi hành án.

01 (một) điện thoại di động hiệu Gionee có số IMEI 8679810104027, có gắn sim số 0906423031 và 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh có số IMEI 867287026808134 đã trả lại cho chủ sở hữu Trần Mạnh C là có căn cứ nên không đề cập đến.

Xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, màu bạc mang biển kiểm soát: 37B1-357.23, số máy 3531-077264, số khung RL CS33106Y077264 là của bà Nguyễn Thị H2 làm chủ sở hữu. Sau khi mua xe bà H2 cho ông M mượn để làm phương tiện đi lại, ông M cho Trần Mạnh C mượn để đi công việc. Ông M không biết việc H nhờ C dùng xe này để chở đi mua ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê đã trả lại xe cho bà H2 do ông M là người được bà H2 ủy 5 - 5 - quyền nhận thay là có căn cứ.

[9] Các vấn đề khác:

Đi với Trần Mạnh C khi H nhờ chở đi có việc thì C đồng ý, không biết việc H đi mua ma túy, không góp tiền mua ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với C là có căn cứ.

Đỗ Trọng H có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Cơ quan Công an quận Thanh Khê đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với H là đúng pháp luật.

Người thanh niên tên T bán ma túy cho H không rõ nhân thân lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

[10] Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Trọng H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Đỗ Trọng H 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt phạm tội quả tang, ngày 17.4.2020.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

2.1. Tiêu hủy ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 phong bì số 125/GĐ-MT, ngày 22.4.2020 có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng.

2.2. Tuyên trả lại cho bị cáo H 01 (một) Điện thoại di động Nokia màu đen có số IMEI 357709105980887, điện thoại gắn sim 1 số 0935494533, gắn sim 2 số 0905502720 và 01 (một) điện thoại di động OPPO màu xanh có số IMEI 868573029678973 nhưng được tiếp tục quy trữ để đảm bảo cho nghĩa vụ thi hành án.

(Toàn bộ vật chứng nêu trên hiện đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03 tháng 9 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng).

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016, ngày 30.12.2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Đỗ Trọng H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

283
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 97/2020/HS-ST ngày 08/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:97/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về