Bản án 97/2019/HSST ngày 27/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 97/2019/HSST NGÀY 27/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 3 năm 2019, tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 103/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 110/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 3 năm 2019, đối với bị cáo:

Bùi Văn Q, tên gọi khác: không. Sinh ngày 12/8/1999. Nơi cư trú: xóm Q, xã T, huyện P, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Quang V và bà Nguyễn Thị N;Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không. Hiện bị cáo đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/01/2019 đến nay). Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng:

1. Bà Lê Thị C, sinh năm 1962, (Vắng mặt).

Trú tại: Tổ V, phường QT, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên

2. Chị Vương Thị H, sinh năm 1964, (Vắng mặt).

Trú tại: Tổ V, phường QT, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 10 giờ 00 ngày 08/01/2019, tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy phối hợp với Đội Cảnh sát Hình sự Công an thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ kiểm tra cơ sở hành chính tại Nhà trọ do bà Vương Thị H là chủ nhà tại tổ V, phường QT, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên. Kiểm tra phòng số 05 của nhà trọ có một nam giới, tự khai họ tên đầy đủ là Bùi Văn Q và tự giác khai nhận đang cất giấu ma túy trong phòng, đồng thời tự lấy ra từ trong hộp giấy đặt trên đầu giường trong phòng giao nộp cho tổ công tác 04 gói nilon màu trắng bên trong mỗi gói đều chứa chất tinh thể màu trắng và 01 gói nilon màu trắng bên trong có 01 viên nén màu xanh. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định; Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành cân số chất tinh thể màu trắng có khối lượng 2,1 gam; 01 viên nén màu xanh có khối lượng 0,369 gam và lấy mẫu vật gửi giám định ký hiệu lần lượt là Q1, Q2 (BL: 31;32).

Tại bản Kết luận giám định số 282/KL – PC09 ngày 16/01/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong mẫu Q1 gửi giám định là chất ma túy, loại Ketamine, có khối lượng 2,1gam; Viên nén màu xanh trong mẫu Q2 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine và MDMA, có khối lượng 0,369 gam (BL 26).

Tại Cơ quan điều tra, Bùi Văn Q khai nhận: Khoảng 10h00 ngày 08/01/2019, Q đang ở tại phòng trọ thì có Cơ quan Công an đến kiểm tra, Q đã tự giác khai nhận trên giường ngủ phòng trọ của Q có cất giấu ma túy và tự giác giao nộp 04 gói ni lon màu trắng, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng và 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa 01 viên nén màu xanh, đó là ma túy của Q mua để sử dụng cho bản thân với giá 6.300.000 đồng của một người đàn ông không quen biết tại khu vực đầu cầu G thuộc phường Đ, thành phố TH từ tháng 12/2018. Cơ quan Công an đã phát hiện bắt quả tang, lập biên như nêu trên.

Lời khai nhận của Bùi Văn Q phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án (BL:29-30; 41-48;49-64).

Vật chứng của vụ án gồm: 02 (Hai) bì niêm phong ký hiệu Q1, Q2, bên trong chứa ma túy. Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý (BL: 40).

Tại bản cáo trạng số 98/CT-VKSNDTP, ngày 20/02/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Bùi Văn Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.

Tại phiên tòa bị cáo Bùi Văn Q khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và như bản cáo trạng đã mô tả. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên trình bày lời luận tội, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Bùi Văn Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51BLHS năm 2015, xử phạt bị cáo Bùi Văn Q từ 18 đến 24 tháng tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Xử lý theo quy định tại Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy: 02 (Hai) bì niêm phong ký hiệu Q1, Q2, bên trong chứa ma túy.

- Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, tại lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án thấp nhất.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cở sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra việc giải quyết.

[2]. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào lời khai của bị cáo, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, lời khai của người chứng kiến cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án.Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 10 giờ 00 phút ngày 08/01/2019, tại tổ V, phường QT, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên, Bùi Văn Q có hành vi tàng trữ 2,1 gam Ketamine và 0,369 gam Methamphetamnie, MDMA, tổng khối lượng là 2,469gam để sử dụng cho bản thân thì bị cơ quan Công an phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo Bùi Văn Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy... thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng ... các chất đó tương tương với khối lượng ... chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này”.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, mà còn là nguồn gốc phát sinh các loại tội phạm khác. Hành vi của bị cáo phải bị xử lý nghiêm khắc bằng pháp luật hình sự để giáo dục riêng và ngăn đe phòng ngừa chung.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 BLHS. Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật.

Bị cáo không có tài sản gì có giá trị, không có nghề nghiệp ổn định, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung tại khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo.

[4].Vật chứng vụ án: 02 (Hai) bì niêm phong ký hiệu Q1, Q2, bên trong chứa ma túy cần tịch thu tiêu hủy.

[5].Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, Bùi Văn Q khai mua của một người đàn ông không rõ lai lịch địa chỉ tại khu vực đầu cầu G thuộc phường Đ, thành phố TH nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở điều tra làm rõ xử lý.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Về hình phạt:

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS xử phạt: Bùi Văn Q 24 ( Hai mươi bốn ) tháng tù giam về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 08/01/2019.

Căn cứ vào Điều 329 Bộ luật tố tụng Hình sự quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung tại khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo.

[2].Vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu tiêu hủy: 02 (Hai) bì niêm phong ký hiệu Q1, Q2, bên trong chứa ma túy (Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số 160 ngày 14/02/2019 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên).

[3]. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 BLTTHS; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí lệ phí tòa án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

[4]. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 97/2019/HSST ngày 27/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:97/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về