Bản án 97/2019/HS-ST ngày 25/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHIÊM HÓA, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 97/2019/HS-ST NGÀY 25/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 98/2019/TLST-HS ngày 16/11/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 98/2019/QĐXXST-HS ngày 11/11/2019 đối với bị cáo:

Bàn Văn S, sinh ngày 11/7/1989 tại huyện CH, tỉnh TQ; Nơi cư trú: Thôn NC, xã KĐ, huyện CH, tỉnh TQ; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Dao; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bàn Văn T, sinh năm 1960 và bà Chu Thị T, sinh năm 1962; Vợ, con: Chưa có; Anh chị em ruột: Có 07 anh chị em, bị cáo là thứ sáu;

Tin án: Có một tiền án: Ngày 16/3/2018 bị Tòa án nhân dân quận HĐ, thành phố HN xử phạt 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 06/02/2019, nộp án phí vào ngày 01/8/2018 (Bản án số 35/2018/HSST ngày 16/3/2018).

Tin sự: Có một tiền sự: Ngày 27/9/2019 bị Ủy ban nhân dân xã KĐ, huyện CH xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi “Đánh bạc”. Nộp phạt ngày 21/10/2019 (Quyết định số 164/QĐ-XPHC ngày 27/9/2019).

Nhân thân: Ngày 08/5/2017 bị Công an xã KĐ, huyện CH xử phạt vi phạm hành chính 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) về hành vi “Cố ý gây thương tích”. Nộp phạt ngày 11/5/2017 (Quyết định số 05/QĐ-XPVPHC ngày 08/5/2019). Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/10/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện CH, tỉnh TQ (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 17 giờ ngày 17/10/2019, Bàn Văn S một mình từ nhà đi bộ ra đường rồi đi nhờ xe mô tô của một người đàn ông không quen biết đến xã LB, huyện CĐ, tỉnh BK mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Đến nơi, S gặp một người đàn ông không quen biết, S hỏi “anh có hàng không? bớt cho em năm trăm” (ý hỏi mua ma túy), người đàn ông nói “có, đưa tiền đây”. S lấy 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng đưa cho người đàn ông, người đàn ông cầm tiền và đưa cho S 05 gói nhỏ Heroine, trong đó 03 gói có đặc điểm bên ngoài gói bằng giấy bạc màu vàng, 02 gói còn lại bên ngoài gói bằng giấy màu trắng có dòng kẻ, bên trong 05 gói đều là Heroine. Mua được Heroine, S cất giấu vào túi quần bên phải đang mặc rồi đi bộ đến chỗ vắng người lấy 01 gói (bên ngoài gói bằng giấy màu trắng có dòng kẻ), ra sử dụng hết bằng cách đốt hít vào cơ thể, 04 gói còn lại S cất giấu như cũ rồi đi nhờ xe mô tô của người đi đường không quen biết để về nhà. Đến khoảng 08 giờ ngày 18/10/2019, S đem theo 04 gói Heroine ra khỏi nhà, mục đích đi tìm chỗ vắng người để sử dụng. Đến 08 giờ 30 phút cùng ngày tổ công tác Công an huyện CH phát hiện, nghi có biểu hiện tàng trữ trái phép chất ma túy nên đã mời S về Ủy ban nhân dân xã KĐ làm việc, tại đây S tự giác lấy trong túi quần bên phải đang mặc giao nộp 04 gói, trong đó 03 gói có đặc điểm bên ngoài gói bằng giấy bạc màu vàng, 01 gói có đặc điểm bên ngoài gói bằng giấy màu trắng có dòng kẻ, bên trong đều chứa chất bột màu trắng, S khai là Heroine, mục đích để sử dụng. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật.

Ti biên bản xét nghiệm tìm chất ma túy hồi 14 giờ 20 phút, ngày 18/10/2019 tại Công an huyện Chiêm Hóa đối với Bàn Văn S kết quả: (+) Dương tính.

Ti Kết luận giám định số: 712/GĐKTHS ngày 21/10/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Số chất bột màu trắng thu giữ của Bàn Văn Sáng là ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,110 gam (Không phẩy một trăm mười gam).

Cáo trạng số: 98/CT-VKSCH ngày 05/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa truy tố bị cáo Bàn Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh, điều luật đã nêu trong Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bàn Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về hình phạt chính: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Bàn Văn S từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

- Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản gì có giá trị; bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy (Heroine) được niêm phong trong một phong bì còn nguyên vẹn, mặt sau các mép dán có chữ ký xác nhận của Bàn Văn S, thành phần tham gia niêm phong và 05 (năm) hình dấu của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, mặt trước ghi tang vật vụ Bàn Văn S giám định ngày 18/10/2019.

Ngoài ra đại diện VKS còn đề nghị HĐXX buộc bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Bàn Văn S thừa nhận bản thân bị cáo là người nghiện ma túy từ năm 2015. Năm 2018 bị cáo bị Tòa án nhân dân quận HĐ, thành phố HN xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngoài ra bị cáo còn có một tiền sự về hành vi “Đánh bạc”. Ngày 18/10/2019 bị cáo có hành vi tàng trữ 0,110 gam (Không phảy một trăm mười gam) Heroine mục đích để sử dụng. Lời khai của bị cáo là phù hợp với nội dung cáo trạng đã nêu và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ mức án cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về việc xem xét hành vi của Bàn Văn S.

Hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của Bàn Văn S được chứng minh bằng lời khai nhận tội của chính bị cáo, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và toàn bộ các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 08 giờ 30 phút ngày 18/10/2019, tại thôn KC, xã KĐ, huyện CH, tỉnh TQ, Bàn Văn S đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,110 gam (Không phảy một trăm mười gam) Heroine, mục đích để sử dụng.

Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Bản thân Bàn Văn S có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã có hành vi tàng trữ 0,110 gam (Không phẩy một trăm mười gam) Heroine mục đích để sử dụng với lỗi cố ý. Khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ trong phạm vi khối lượng ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự (từ 0,1 gam đến 05 gam). Do đó, hành vi của Bàn Văn S đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự và Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa truy tố đối với bị cáo S là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Về tình tiết tăng nặng: Bàn Văn S có một tiền án chưa được xóa án tích. Do vậy, lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là “tái phạm” quy định tại đoạn 1, điểm h, khoản 1, Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự cần áp dụng cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[3]. Về việc quyết định hình phạt đối với bị cáo.

- Hình phạt chính: Hội đồng xét xử thấy rằng, mặc dù khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ (0,110 gam) thấp gần bằng mức khởi điểm (0,1 gam) quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, bản thân bị cáo có một tiền án về cùng một hành vi chưa được xóa án tích, có một tiền sự chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt hành chính, là người có nhân thân xấu. Xét nhân thân, tính chất, mức độ nguy hiểm trong hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng năng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử quyết định xử phạt bị cáo hình phạt tù có thời hạn với mức án trên mức khởi điểm được quy định điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự và trong phạm vi đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhằm đảm bảo giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa phạm tội mới, đồng thời phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm chung.

- Hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra xác định Bàn Văn S là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản gì có giá trị; bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[4]. Về việc xem xét tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.

Quá trình điều tra, truy tố các Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm do Luật định. Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, giải quyết vụ án đúng theo trình tự, thủ tục được thể hiện thông qua việc ghi chép, lập biên bản các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, thực hiện việc xét hỏi, tranh tụng đúng quy định tại các Điều 289, 306, 315, 320, 321, 322 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[5] Về vật chứng, án phí, quyền kháng cáo bản án và các vấn đề khác.

Cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo 01 gói Heroine có tổng khối lượng 0,110 gam (Không phẩy một trăm mười gam), sau khi đã lấy đi giám định số còn lại được niêm phong trong phong bì cần tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Bàn Văn S, do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ, cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý; Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Bàn Văn S, Công an huyện Chiêm Hóa đã ra Quyết định xử phạt hành chính. Do vậy, HĐXX không xem xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 106, 135, 136, 331 và 333 của Bộ Luật tố tụng hình sự;

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật hình sự;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

- Tuyên bố: Bị cáo Bàn Văn S phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

1. Về hình phạt: Xử phạt Bàn Văn S 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 18/10/2019).

2. Về vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy (Heroine) được niêm phong trong một phong bì còn nguyên vẹn, mặt sau các mép dán có chữ ký xác nhận của Bàn Văn S, thành phần tham gia niêm phong và 05 (năm) hình dấu của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, mặt trước ghi tang vật vụ Bàn Văn S giám định ngày 18/10/2019.

(Tình trạng vật chứng như biên bản về vic giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an huyện Chiêm Hóa và Chi cục thi hành án dân sự huyện Chiêm Hóa lập ngày 06/11/2019).

3. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo Bàn Văn S phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 97/2019/HS-ST ngày 25/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:97/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chiêm Hóa - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về