Bản án 97/2019/HNGĐ-ST ngày 29/04/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 97/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/04/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 29 tháng 4 năm 2020 tại Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 143/2020/TLST -HNGĐ ngày 24 tháng 02 năm 2020, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 3 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 70/2020/QĐST- HNGĐ ngày 31 tháng 3 năm 2020, giữa các đương sự:

-Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thùy T – sinh năm 1981. Địa chỉ: Ấp N, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau; vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T – sinh năm 1979. Địa chỉ: Ấp N, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 24/02/2020 và các tài liệu trong quá trình tố tụng, chị Nguyễn Thùy T trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh T sống chung năm năm 2002, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức hôn lễ, có đăng ký kết hôn tại tại Ủy ban nhân dân xã Khánh Hưng năm 2002 theo quy định pháp luật, hiện tại vợ chồng đã ly thân nhau. Xét thấy cuộc sống chung không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn thường xuyên xảy ra và không hàn gắn được nên chị yêu cầu ly hôn với anh T.

Về con chung: Có hai người con chung là cháu Nguyễn Mỹ N, sinh năm 2000 và cháu Nguyễn Trung H, sinh ngày 23/9/2004, cháu N hiện đã trưởng thành có cuộc sống ổn định không yêu cầu tòa án giải quyết. Cháu H hiện đang sống cùng anh T, chị yêu cầu giao cháu Hậu cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng, chị không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Chị xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn Nguyễn Văn T đúng theo quy định pháp luật nhưng anh T không có văn bản thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Bị đơn anh Nguyễn Văn T có nơi cư trú tại ấp N, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Chị Nguyễn Thùy T khởi kiện yêu cầu ly hôn đối với anh Nguyễn Văn T, yêu cầu giao con cho bị đơn trực tiếp nuôi dưỡng. Vì vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án được xác định là "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Chị T là người khởi kiện, anh T là người bị kiện nên xác định tư cách đương sự chị T là nguyên đơn, anh T là bị đơn theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 68 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Chị T có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, anh T đã được tòa án triệu tập xét xử hợp lệ những vẫn vắng mặt không có lý do, căn cứ theo Điều 227, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Tòa án xét xử vắng mặt anh chị chị T, anh T theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh chị tự nguyện xác lập quan hệ hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Khánh Hưng, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau vào năm 2002 đúng theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa anh chị được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Xét nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cãi, gia đình hai bên có hàn gắn nhưng không thành, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị T xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh T và thể hiện sự quyết tâm mong muốn được ly hôn với anh T. Trường hợp nếu cho các bên tiếp tục chung sống sẽ không mang lại hạnh phúc, do đó Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của chị T được ly hôn với anh T.

[3] Về con chung: Anh chị có hai người con chung là cháu Nguyễn Mỹ N, sinh năm 2000 và cháu Nguyễn Trung H, sinh ngày 23/9/2004, cháu N hiện đã trưởng thành có cuộc sống ổn định không yêu cầu tòa án giải quyết. Cháu H hiện đang sống cùng anh T, chị yêu cầu giao cháu H cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy cháu H hiện nay đang sống chung với anh T, chị T hiện nay đi làm ăn xa không có mặt tại địa phương, không trực tiếp nuôi dưỡng cháu H, ít khi về thăm các cháu. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu H cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với sự phát triển ổn định vốn có của cháu và đúng với quy định của pháp luật.

[4] Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Chị T yêu cầu không phải cấp dưỡng nuôi cháu H. Xét, anh T đã được tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do cũng như không gửi ý kiến của mình đến tòa án để trình bày trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu chị T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét về việc buộc chị T có nghĩa vụ cấp dưỡng đối với cháu H, nếu có tranh chấp về vấn đề cấp dưỡng thì anh T có quyền khởi kiện yêu cầu chị T thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định pháp luật.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị T xác định không có, không yêu cầu tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc chị T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình. Anh T không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 và khoản 3 Điều 68, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 235, Điều 238, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 9, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thùy T về việc yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Trung H, sinh ngày 23/9/2004 cho anh Nguyễn Văn T trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Nguyễn Thùy T không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Chị Nguyễn Thùy T không phải cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thùy T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình, chị có nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0003303 ngày 24 tháng 02 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau được chuyển thu đối trừ, chị Nguyễn Thùy T không phải nộp tiếp.

Án xử công khai, chị Nguyễn Thùy T, anh Nguyễn Văn T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 97/2019/HNGĐ-ST ngày 29/04/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:97/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về