Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 08/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 03/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 08 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 336/2020/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 11 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1989. Nơi đăng ký HKTT: Đội 4, thôn V, xã H, huyện K, thành phố Hải Phòng. Hiện trú tại: Tổ dân phố N, phường M, quận Đ, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Huy T, sinh năm 1989. Nơi cư trú: Đội 4, thôn V, xã H, huyện K, thành phố Hải Phòng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 23 tháng 10 năm 2020 và bản tự khai ngày 10 tháng 11 năm 2020, chị Nguyễn Thị D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Nguyễn Huy T do tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện K ngày 11 tháng 11 năm 2009. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng hơn 9 năm, đến tháng 5 năm 2019 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, anh T mải chơi, đánh bạc, sống không chung thủy nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau, xúc phạm nhau. Mâu thuẫn đã được gia đình khuyên bảo, hòa giải Nều lần nhưng không có kết quả do anh T không sửa chữa. Chị bỏ về nhà mẹ đẻ ở 02 lần tại tổ dân phố N, phường M, quận Đ, lần cuối cùng từ tháng 10 năm 2020 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị xin ly hôn anh T.

Về con chung: Anh chị có 02 con là Nguyễn Huy D1, sinh ngày 14 tháng 11 năm 2010 và Nguyễn Đông N, sinh ngày 19 tháng 8 năm 2016 đang do anh T nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị nhận nuôi cháu N đến khi đủ 18 tuổi, để cháu D1 cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, anh chị thỏa thuận tự giao nhận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản và công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Nguyễn Huy T khai thống nhất với chị D về thời gian, điều kiện kết hôn, quá trình chung sống, nguyên nhân mâu thuẫn. Chị D 02 lần bỏ về nhà mẹ đẻ để ở, lần cuối cùng vào tháng 10 năm 2020 đến nay vợ chồng sống ly thân, không quan tâm gì đến nhau. Nay chị D xin ly hôn, anh đồng ý.

Về con chung: Anh chị có 02 con là Nguyễn Huy D1, sinh ngày 14 tháng 11 năm 2010 và Nguyễn Đông N, sinh ngày 19 tháng 8 năm 2016 đều đang do anh nuôi dưỡng. Nếu ly hôn anh nhận tiếp tục nuôi dưỡng cả hai con đến khi đủ 18 tuổi. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, anh chị thỏa thuận tự giao nhận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Nguyên đơn, bị đơn chấp hành đầy đủ quyền, nghĩa vụ theo quy định tại các điều 70, 71, 72 và Điều 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án:

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị D, cho chị Nguyễn Thị D được ly hôn anh Nguyễn Huy T.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Huy D1, sinh ngày 14 tháng 11 năm 2010 cho anh T nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Giao cháu Nguyễn Đông N, sinh ngày 19 tháng 8 năm 2016 cho chị D nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, hai bên đương sự thỏa thuận tự giao nhận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

Về tài sản, công nợ: Anh chị đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Về án phí: Chị D phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

- Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Đây là “Tranh chấp về ly hôn và nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

- Về nội dung:

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị D xin ly hôn anh T; căn cứ vào lời khai của đương sự và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, thông tin do UBND xã H, huyện K cung cấp về quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị D và anh Nguyễn Huy T có đăng ký kết hôn năm 2009, anh chị chung sống hạnh phúc được khoảng hơn 09 năm. Đến tháng 5 năm 2019, phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, anh T mải chơi, đánh bạc, sống không chung thủy dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau, xúc phạm nhau. Chị D bỏ về nhà mẹ đẻ ở 02 lần, lần cuối cùng vào tháng 10 năm 2020 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Do đó, đủ cơ sở xác định tình trạng hôn nhân của anh chị thực sự trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài. Nay chị D xin ly hôn anh T; quan điểm của UBND xã H đề nghị Tòa án giải quyết cho chị D được ly hôn anh T. Như vậy, cần xử cho chị D được ly hôn anh T là phù hợp với các điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

[3] Về con chung: Xét nguyện vọng của chị D nhận nuôi cháu Nguyễn Đông N, sinh ngày 19 tháng 8 năm 2016 đến khi con đủ 18 tuổi, để cháu Nguyễn Huy D1, sinh ngày 14 tháng 11 năm 2010 cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi. Căn cứ vào thông tin do UBND xã H và bà Phạm Thị Yên là mẹ đẻ chị D cung cấp về việc chị D có chỗ ở, việc làm ổn định, thu nhập bình quân mỗi tháng khoảng 7.000.000 đồng, đủ điều kiện nuôi dưỡng cháu N. Căn cứ vào thông tin do UBND xã H và bà Trịnh Thị Nguyên là mẹ đẻ anh T cung cấp về việc anh T có chỗ ở ổn định, thu nhập bình quân mỗi tháng từ 10.000.000 đồng trở lên, khi chị D 02 lần bỏ về nhà mẹ đẻ ở, cháu D1 được anh T nuôi dưỡng đảm bảo, đầy đủ điều kiện cho cháu sinh hoạt, học tập và chỗ ở ổn định, bên cạnh đó còn có sự giúp đỡ của bà, cháu D1 có nguyện vọng ở với anh T. Do đó, cần giao cháu N cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi; giao cháu D1 cho anh T tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi là phù hợp với các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị D và anh T đã thỏa thuận tự giao nhận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[4] Về tài sản, công nợ: Anh chị đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí: Chị D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56; các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị D được ly hôn anh Nguyễn Huy T.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Huy D1, sinh ngày 14 tháng 11 năm 2010 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Giao cháu Nguyễn Đông N, sinh ngày 19 tháng 8 năm 2016 cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị D và anh T thỏa thuận tự giao nhận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi ly hôn, chị D, anh T đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị D phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu ký hiệu AA/2016, số 0009340 ngày 10 tháng 11 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K. Chị D đã chịu đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị D và anh T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

560
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 08/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:03/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Thuỵ - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:08/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về