Bản án 96/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 96/2019/HS-ST NGÀY 26/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Huyện P, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 91/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 94/2019/QĐXXST- HS ngày 14 tháng 11 năm 2019 đối với:

Bị cáo Lê Bá Q sinh ngày 26/5/1985; nơi sinh: Huyện P, tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Thôn Đ, xã Quỳnh L, Huyện P, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Bá C sinh năm 1961 và bà: Nguyễn Thị H sinh năm 1963; vợ: Trịnh Thị B sinh năm 1988 con: Có 03 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2019 Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân: Quyết định số 3268/QĐ-UBND ngày 23/9/2011 của Chủ tịch UBND Huyện P áp dụng biện pháp đưa vào Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục – Lao động xã hội. Bị tạm giữ từ ngày 01/10/2019, chuyển tạm giam ngày 04/10/2019 hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an Huyện P (trích xuất có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Chị Trịnh Thị B sinh năm 1988

Địa chỉ: Thôn Đ, xã Quỳnh L, Huyện P, tỉnh Thái Bình Người chứng kiến:

- Anh Nguyễn Trọng T sinh năm 1972

Địa chỉ: Tổ A, thị trấn QC, Huyện P, tỉnh Thái Bình

- Ông Nguyễn Văn H sinh năm 1960

Địa chỉ: Tổ B, thị trấn QC, Huyện P, tỉnh Thái Bình

(Tại phiên tòa có mặt chị Bé; vắng mặt anh T và ông H)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 09 giờ ngày 01/10/2019, tại khu vực tổ 1, thị trấn QC, Huyện P, tỉnh Thái Bình, tổ công tác Công an Huyện P phối hợp với Công an thị trấn QC phát hiện Lê Bá Q đang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA – JUPITERRC, biển kiểm soát 17B5 – 110.XX, có biểu hiện liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu Q về trụ sở Công an thị trấn QC để làm rõ. Tiến hành kiểm tra người Q, Công an phát hiện, thu giữ trên túi áo khoác bên phải Q đang mặc 01 gói giấy trắng chứa chất bột màu trắng dạng cục. Q khai nhận đó là ma túy mua để sử dụng cho bản thân. Kiểm tra chiếc xe mô tô trên không phát hiện, thu giữ gì. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Lê Bá Q không thu giữ tài sản, đồ vật gì liên quan đến hành vi phạm tội.

Tại bản kết luận giám định 381/KLGĐ-PC09 ngày 02/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận:

Vt chứng gửi đến giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,2339 gam (Không phẩy hai nghìn ba trăm ba mươi chín gam).

Heroine STT: 09, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ”.

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đều khai nhận: Bản thân nghiện ma túy nên 08 giờ 30 ngày 01/10/2019, bị cáo điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA – JUPITERRC, biển kiểm soát 17B5 – 110.XX của bị cáo từ nhà lên khu vực xã QH, Huyện P với mục đích mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Đến nơi, bị cáo gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng rồi giấu vào túi áo khoác bên phải đang mặc và đi tìm chỗ vắng để sử dụng. Khi đến tổ 1, thị trấn QC thì bị phát hiện bắt giữ. Chiếc xe mô tô bị cáo điều khiển để đi mua ma túy về sử dụng đây là tài sản chung của vợ chồng, lúc bị cáo lấy đi vợ bị cáo không biết, bị cáo đề nghị xin lại chiếc xe mô tô trên.

Ti phiên tòa người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Trịnh Thị B khai: Chị và bị cáo Lê Bá Q là vợ chồng, chị không có ý kiến gì về hành vi phạm tội của bị cáo. Riêng đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA – JUPITERRC, biển kiểm soát 17B5 – 110.XX mà bị cáo dùng để đi mua ma túy về sử dụng, đây là tài sản chung của vợ chồng, khi đăng ký xe đã lấy tên Lê Bá Q, lúc bị cáo lấy xe đi chị không biết, chị đề nghị xin lại chiếc xe mô tô trên.

Bản cáo trạng số 99/CT-VKSQP ngày 06/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện P, tỉnh Thái Bình truy tố Lê Bá Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với Lê Bá Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh tuyên bố bị cáo Lê Bá Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Về hình phạt: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51và Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù đến 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 01/10/2019; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên trả lại bị cáo 01 xe mô tô nhãn hiệu nhãn hiệu YAMAHA – JUPITERRC, biển kiểm soát 17B5 – 110.XX; tịch thu để tiêu hủy toàn bộ vật chứng là Hêrôin thu được của bị cáo trong phong bì niêm phong hoàn mẫu vật sau giám định; Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận gì; bị cáo nói lời sau cùng: nhận thức hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, rất ân hận về hành vi mà mình đã thực hiện và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra Công an Huyện P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Huyện P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận do nghiện ma túy nên bị cáo đã đi mua ma túy về sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Bị cáo đã đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, đúng như nội dung bản Cáo trạng đã mô tả và được chứng minh bằng: biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng do Công an Huyện P lập ngày 01/10/2019, lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan lời khai của người chứng kiến, bản kết luận giám định cùng toàn bộ các tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Do đó có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ ngày 01/10/2019, tại khu vực tổ 1, thị trấn QC, Huyện P, tỉnh Thái Bình, Lê Bá Q đã có hành vi cất giấu tại túi áo khoác bên phải đang mặc 01 gói ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,2339 gam (Không phẩy hai nghìn ba trăm ba mươi chín gam) nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, đã bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an Huyện P phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

“Điều 249 Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1.Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy, thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các Điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b)Nhựa thuốc phiên, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam; c)Hêrôin côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA, hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

……….”

Viện kiểm sát nhân dân Huyện P truy tố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thấy: Tệ nạn ma túy đang là mối quan tâm, nhức nhối của toàn xã hội, ma túy làm ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe, làm suy thoái nòi giống, làm phát sinh đại dịch HIV/AIDS và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, bị cáo hiểu rõ tác hại của ma túy nhưng vì nghiện ma túy nên bị cáo đã phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật với mức án tương xứng hành vi bị cáo đã gây ra, việc cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để chấp hành hình phạt là cần thiết để cải tạo, giáo dục bị cáo riêng và có tác dụng trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành thật khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Bị cáo đã bị áp dụng biện pháp đưa vào Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục – Lao động xã hội - đã được giáo dục song không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội, điều đó thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy, mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo như mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Như vậy, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo lao động tự do, không có thu nhập ổn định, lại nghiện ma túy, điều kiện kinh tế khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Do không có căn cứ xác định người đã bán ma túy cho bị cáo nên cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra xử lý.

[9] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo 01 gói chứa chất bột màu trắng dạng cục, kết quả giám định kết luận là ma túy loại Heroine và hoàn trả mẫu vật sau giám định, cần tịch thu để tiêu hủy; Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu nhãn hiệu YAMAHA – JUPITERRC, biển kiểm soát 17B5 – 110.XX mà bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội, đây là tài sản chung của bị cáo và vợ là chị Trịnh Thị Bé. Chị Bé không biết bị cáo lấy xe để làm phương tiện phạm tội, nên cần trả lại cho bị cáo chiếc xe này. Như vậy tiêu hủy 01 gói ma túy và trả lại bị cáo chiếc xe môt tô là phù hợp quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố Tụng hình sự.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Bá Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2.Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo Lê Bá Q 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 01/10/2019.

3.Về xử lý vật chứng: Áp dụng: Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

3.1.Tuyên tịch thu tiêu hủy 0,2145 gam (Không phẩy hai nghìn một trăm bốn mươi lăm gam) mẫu gửi giám định được niêm phong trong phong bì hoàn mẫu vật sau giám định ghi số 381/KLGĐ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình 3.2.Tuyên trả bị cáo Lê Bá Q 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA – JUPITERRC, biển kiểm soát 17B5 – 110.XX (Các vật chứng trên được thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự Huyện P, tỉnh Thái Bình ngày 07/11/2019)

4.Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Lê Bá Q phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5.Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 96/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:96/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về