TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN PHƯỚC, TỈNH QUẢNG NAM
BẢN ÁN 96/2017/HNGĐ-ST NGÀY 25/09/2017 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 25 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 92/2017/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2017 về việc "Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/QĐXX - HNGĐST ngày 13/9/2017, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1974;
- Bị đơn: Ông Nguyễn C, sinh năm: 1972;
Cùng địa chỉ: Thôn 7B, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Nam.
Bà T có mặt tại phiên tòa. Ông C có yêu cầu xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong nội dung đơn xin ly hôn và các lời khai tiếp theo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị T thể hiện: Bà và ông C xác lập quan hệ hôn nhân, có đăng ký kết hôn vào năm 1996 tại Ủy ban nhân dân xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Năm 2001, bà và ông C ly hôn. Sau đó, tháng 11 năm 2002, ông bà chung sống với nhau như vợ chồng tại xã T, không có đăng ký kết hôn cho đến nay. Cuộc sống chung giữa ông bà phát sinh mâu thuẫn do ông C rượu chè, hay ghen tuông vô cớ rồi đánh đập bà. Hiện tại, bà đang đi làm tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam nhưng ông C thường xuyên gọi điện thoại đe dọa bà. Bà cảm thấy không thể tiếp tục chung sống với ông C được nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông C để bà yên tâm làm việc và ổn định cuộc sống.
Về con chung: Sau khi về chung sống như vợ chồng với nhau ông bà có một người con chung là cháu Nguyễn Thị Xuân P, sinh năm 2003. Do hiện tại bà chưa có công việc và chỗ ở ổn định, bà đi làm ở thành phố T, tỉnh Quảng Nam, ở nhà thuê nên nguyện vọng của bà sau khi ly hôn là giao cháu Phi cho ông C trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Phi đủ 18 tuổi, bà không cấp dưỡng nuôi con; ông C đã thống nhất vấn đề này, đề nghị Tòa án công nhận sự thỏa thuận của hai ông bà.
Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai và các lời khai tiếp theo của bị đơn ông Nguyễn C thể hiện: Năm 2001, ông bà ly hôn và vào tháng 11 năm 2002 thì ông bà chung sống với nhau nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Cuộc sống chung của ông bà không có hạnh phúc do không đồng quan điểm sống, tính cách không hợp nhau. Bà T đã bỏ nhà đi hơn hai tháng nay, ông tự nuôi các con ăn học. Bà T có nguyện vọng ly hôn thì ông đồng ý.
Về con chung: Ông và bà T đã thỏa thuận, sau khi ly hôn, giao cháu
Nguyễn Thị Xuân P, sinh ngày 29/7/2003 cho ông trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi; bà T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Ông đề nghị Tòa án ghi nhận sự thỏa thuận này.
Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam tham gia phiên tòa: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các trình tự thủ tục tố tụng, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các đương sự khi tham gia tố tụng. Nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng pháp luật tố tụng, bị đơn mặc dù vắng mặt nhưng đã có lời trình bày đề nghị xét xử vắng mặt. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng của bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn C. Về con chung: đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự như nội dung thỏa thuận trong biên bản hòa giải.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án do đương sự cung cấp đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1].Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn C có yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt vì lý do sức khỏe. Xét thấy lý do ông C yêu cầu là chính đáng và phù hợp nên Tòa án căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn. [2]. Về nội dung:
[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn C tự nguyện tìm hiểu rồi xác lập quan hệ hôn nhân vào năm 1996, có đăng ký kết hôn. Trong thời gian chung sống, ông bà có hai người con (đến nay đều đã trưởng thành). Tháng 8 năm 2001, ông bà ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số: 22/QĐ-HNST ngày 29/8/2001 của Tòa án nhân dân huyện Tiên Phước. Từ tháng 11 năm 2002 đến nay, ông bà chung sống với nhau như vợ chồng tại xã Tiên Cảnh, không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Và cho đến thời điểm hiện nay, ông bà vẫn không đăng ký kết hôn. Qua lời khai của bà T và ông C thể hiện: Cuộc sống chung của ông bà không có hạnh phúc do tính cách không hợp, thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, hai người không còn tin tưởng, yêu thương lẫn nhau, mâu thuẫn đến mức trầm trọng, hiện tại hai người không còn chung sống với nhau và đều có nguyện vọng ly hôn; Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở áp dụng Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà T và ông C.
[2.2]. Về con chung: Sau khi ly hôn và về chung sống như vợ chồng với nhau, ông bà có thêm một người con chung là cháu Nguyễn Thị Xuân P, sinh ngày 29/7/2003. Tại biên bản hòa giải ngày 13/9/2017, ông bà đã thỏa thuận: Sau khi ly hôn, giao cháu Nguyễn Thị Xuân P, sinh ngày 29/7/2003 cho ông C trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi. Bà T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Ông bà đề nghị Tòa án công nhận sự thỏa thuận này. Xét thấy sự thỏa thuận của các bên đương sự là hoàn toàn tự nguyện, đúng pháp luật và không trái đạo đức xã hội, hơn nữa hiện nay bà T chưa có chỗ ở và việc làm ổn định, từ khi bà T bỏ nhà đi thì cháu Phi sống cùng ông C và hiện đang đi học ở Tiên Phước nên việc giao cháu Phi cho ông C nuôi dưỡng là phù hợp; cần chấp nhận.
[2.3]. Về tài sản chung, nợ chung: không có yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.
[2.4]. Về án phí: Bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 9, 14, 15, 53, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn C.
2. Về nuôi con: Công nhận sự thỏa thuận giữa bà Nguyễn Thị T và ông Nguyễn C, cụ thể như sau:
Giao cháu Nguyễn Thị Xuân P, sinh ngày 29/7/2003 cho ông C trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi. Bà T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Bên không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được ngăn cản họ thực hiện quyền này. Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó. Khi cần thiết, các bên có quyền làm đơn xin thay đổi việc nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Về án phí: Bà Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng y) án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam theo biên lai thu số 0018502 lập ngày 07 tháng 9 năm 2017. Bà T đã nộp đủ tiền án phí.
Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam xét xử theo trình tự phúc thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (25/9/2017). Bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 96/2017/HNGĐ-ST ngày 25/09/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 96/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tiên Phước - Quảng Nam |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/09/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về