TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 95/2018/HS-ST NGÀY 10/10/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 10 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện N, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 91/2018/TLST-HS, ngày 09 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 87/2018/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 8 năm 2018, Quyết định hoãn phiên tòa số 30/2018/HSST-QĐ ngày 06/9/2018 và Quyết định hõa phiên tòa số 33/2018/HSST-QĐ ngày 26/9/2018 đối với bị cáo:
1/ Bùi Mạnh Ty, sinh năm 1980; Nơi sinh tại tỉnh B; Tên gọi khác: Không có; Nơi đăng ký HKTT: Tổ 1, phường L, thành phố B, tỉnh B; Chỗ ở hiện nay: Ấp 5, xã Đ, huyện N, tỉnh Long An; Giới tính: Nam; Dân tộc: Mường; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Bùi Lam T, sinh năm 1950 và bà Đỗ Thị H, sinh năm 1957; Bị cáo có vợ Trần Thị L, sinh năm 1986 và có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2015; Tiền sự: Không; Tiền án: Tại Bản án số 72/2017/HS-ST, ngày 21/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Long An xử phạt bị cáo Bùi Mạnh T 06 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”, đã chấp hành án xong ngày 30/9/2017; Bị cáo bị bắt khẩn cấp tạm giữ từ ngày 26/4/2018 đến ngày 05/5/2018 chuyển tạm giam cho đến nay. Bị cáo có mặt.
2/ Diệp Chí Ka, sinh năm 1988; Nơi sinh tại tỉnh M; Tên gọi khác: Không có; Nơi đăng ký HKTT: ấp Đ, xã T, huyện G, tỉnh Cà Mau; Chỗ ở hiện nay: Ấp 4, xã L, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Diệp Văn L, sinh năm 1966 và bà Trần Thị N, sinh năm 1967; Bị cáo chưa có vợ, có con; Tiền sự: Không; Tiền án: Không, (Bản án số 332/HS-ST, ngày 19/12/2013 của Tòa án nhân dân thành phố M, tỉnh Cà Mau xử phạt 02 (hai) năm tù về tôi “tàng trữ trái phép chất ma túy”, đã chấp hành án xong ngày 04/6/2015 và đã nộp xong án phí hình sự sơ thẩm, thuộc trường hợp đương nhiên xóa án tích); Bị cáo bị bắt khẩn cấp tạm giữ từ ngày 26/4/2018 đến ngày 05/5/2018 chuyển tạm giam cho đến nay. Bị cáo có mặt.
- Bị hại: Bà Nguyễn Thị Anh Đ, sinh năm 1985;
Địa chỉ: Ấp 5, xã Đ, huyện N, tỉnh Long An. (vắng mặt)
- Người có quyền lơi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Lê Thành C, sinh năm 1997;
Địa chỉ: Chùa H, ấp 4, xã L, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
2. Ông Võ Hoàng L, sinh năm 1969;
Địa chỉ: ấp 4, xã L, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
- Người làm chứng: Ông Nguyễn Hoàng P, ông Huỳnh Ngọc P (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Tại bản cáo trạng số 93/CT-VKSĐH ngày 06 tháng 8 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Long An truy tố Bùi Mạnh T, Diệp Chí K về hành vi phạm tội như sau:
Ngày 24 tháng 4 năm 2018, Diệp Chí K đến nhà của Bùi Mạnh T tại Ấp 5, xã Đ, huyện N, tỉnh Long An để chơi và cùng sử dụng chất ma túy. Đến khoảng11 giờ ngày 26/4/2018, do không có tiền mua chất ma túy cho nên T và K thống nhất đi trộm cắp tài sản để có tiền tiêu xài. Sau đó, K và T đi bộ đến nhà trọ hiệu S, tại Ấp 5, xã Đ, huyện N, tỉnh Long An. K và T nhìn thấy bà Nguyễn Thị Anh Đ điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius màu trắng đen, biển số 59M2-132.73 từ bên ngoài chạy vào dựng trước phòng trọ số 01 của nhà trọ Ngọc Sơn.
T và K thống nhất trộm xe này, T kêu K đứng ở bên ngoài cảnh giới còn Thủy đi vào dãy nhà trọ và nhìn thấy xe mô tô biển số 59M2-132.73 của bà Đ dựng ngay trước cửa phòng trọ, chìa khóa còn ở trên ổ cắm, không có ai trông giữ xe, T lén lút tiếp cận đẩy xe mô tô ra cổng rồi mở công tắc nổ máy xe chở K đến khu vực bờ kênh cầu nhỏ thuộc khu vực xã H, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh gặp một thanh niên không rõ họ tên, lai lịch, để mua 01 gói chất ma túy và cùng nhau sử dụng . Sau khi sử dụng chất ma túy xong, T tiếp tục điều khiển xe mô tô nói trên đến ấp 2, xã N, huyện N, tỉnh Long An để tìm người mua xe đã trộm được thì bị lực lượng công an phát hiện tạm giữ người và xe để xử lý. Quá trình làm việc với Cơ quan điều tra, T và K khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.
Qua điều tra xác định: Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius màu trắng đen, biển số 59M2-132.73 do ông Lê Thành C, sinh năm 1993, hộ khẩu thường trú: Số 395/21/11 MP, Phường 10, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Sau đó, ông Công giao lại cho ông Võ Hoàng L, sinh năm 1969, hộ khẩu thường trú: Ấp 4, xã L, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh quản lý. Đến tháng 4/2018, ông L cho bà Đ mượn để sử dụng thì bị T và K trộm cắp. Hiện tại, ông C không có mặt tại địa phương nên không tiến hành làm việc được, đồng thời Cơ quan Công an đã thông báo nhắn tìm chủ sở hữu đến làmviệc nhưng ông C vẫn không liên hệ với Cơ quan Công an điều tra để làm việc.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 21/KL.ĐGTS ngày 27/4/2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Đức Hòa kết luận xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius màu trắng đen, biển số 59M2-132.73, số khung RLCUE 3240-HY076714, số máy: E3X9E201168 có giá trị là 19.170.000 đồng (Mười chín triệu một trăm bảy mươi nghìn đồng).
Về vật chứng: Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa đang tạm giữ vật chứng: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius màu trắng đen, biển số 59M2-132.73, số khung RLCUE 3240-HY076714, số máy: E3X9E201168. (TheoQuyết định chuyển vật chứng số 70/QĐ-VKSĐH ngày 06/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An và biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 101-08/8/2018 ngày 08/8/2018)
Về trách nhiệm dân sự: bà Nguyễn Thị Anh Đ là bị hại trong vụ án trực tiếp quản lý, sử dụng xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, biển số 59M2- 132.73, số khung RLCUE 3240-HY076714, số máy: E3X9E201168. Quá trình điều tra, bà Đào thừa nhận mượn xe nêu trên của ông Võ Hoàng L và đề nghị trả xe nêu trên cho ông L. Ngoài ra, bà Đào không có yêu cầu gì khác nên không đề cập.
Tại bản cáo trạng số 93/CT-VKSĐH, ngày 06 tháng 8 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An truy tố Bùi Mạnh T và Diệp Chí K về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa hôm nay, kiểm sát viên giữ quyền công tố trong phần luận tội đã phân tích đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố: Bùi Mạnh T, Diệp Chí K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt: bị cáo Bùi Mạnh T từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Thời gian tù được tính từ ngày bị bắt, tạm giam ngày 26/4/2018.
Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt: bị cáo
Diệp Chí K từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Thời gian tù được tính từ ngày bị bắt, tạm giam ngày 26/4/2018.
Về vật chứng: Bị hại là bà Nguyễn Thị Anh Đ thừa nhận mượn xe của ông Võ Hoàng L, nên trả lại cho ông L 01 xe Mô tô Yamaha, hiệu Sirius, biển số 59M2-132.73, số khung RLCUE3240-HY076714, số máy: E3X9E-201168. Do bà Đ không có yêu cầu gì khác nên không đề cập xem xét.
Về trách nhiệm dân sự: Do bà Đ không có yêu cầu gì khác về trách nhiệm dân sự, nên không đề cập đến.
Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi của mình đúng như cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đã nêu.
Các bị cáo không tranh luận, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về gia đình, lo làm ăn và làm người có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đức Hòa, của Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và các bị hại, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Sự thừa nhận của các bị cáo Bùi Mạnh T, Diệp Chí K tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả thực nghiệm điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận hành vi lén lút trộm 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius màu trắng đen, biển số 59M2-132.73, có trị giá là 19.170.000 đồng do bà Nguyễn Thị Anh Đ đang trực tiếp quản lý sử dụng đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 137 Bộ luật hình sự. Trong đó, Bùi Mạnh T thực hiện tội phạm với vai trò người thực hành (trực tiếp lấy trộm xe), còn Diệp Chí K thực hiện tội phạm với vai trò người giúp sức (cảnh giới cho T thực hiện tội phạm khi trộm cắp được xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius màu trắng đen, biển số 59M2-132.73, trên đường T cùng K tìm người bán xe thì bị lực lượng Công an phát hiện tạm giữ người và tang vật để điều tra xử lý).
[3] Hành vi phạm tội của T, K thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn không có tổ chức do không có sự cấu kết chặt chẽ chỉ là bộc phát nhất thời đã trực tiếp xâm hại đến tài sản hợp pháp của do bà Nguyễn Thị Anh Đ đang trực tiếp quản lý sử dụng, gây mất trật tự trị an địa phương, nguy hiểm cho xã hội, làm cho nhân dân bất bình, hoang mang, lo sợ nên cần phải nghiêm trị các bị cáo bằng một hình phạt thỏa đáng mới có thể giáo dục và phòng ngừa chung.
[4] Hành vi trái pháp luật của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, với bản tính tham lam, động cơ, mục đích vụ lợi, muốn có tiền tiêu xài mà không phải bỏ công sức lao động của mình làm ra nên bị cáo nảy sinh ra ý định chiếm đoạt tài sản của người khác bán lấy tiền tiêu xài nhằm phục vụ thỏa mãn nhu cầu của bản thân.
[5] Tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình như cáo trạng đã nêu, các bị cáo xác định cáo trạng truy tố bị cáo là không oan sai, bị cáo không tranh luận và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt; Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt.
[5.1] Do đó, khi Hội đồng xét xử lượng hình cần xem xét cho các bị cáo tình tiết giảm nhẹ: các bị cáo T và K đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[5.2] Riêng đối với bị cáo Bùi Mạnh T có 01 tiền án: Tại Bản án số 72/2017/HS-ST, ngày 21/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Long An xử phạt 06 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”, đã chấp hành án xong ngày 30/9/2017. Đến ngày 26/4/2018, bị cáo T lại tiếp tục trộm cắp tài sản” là thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[5.3] Đối với bị cáo Diệp Chí K bị Tòa án nhân dân thành phố M, tỉnh Cà Mau xử phạt 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đã chấp hành án xong ngày 04/6/2015 và đã nộp xong án phí hình sự sơ thẩm theo bản án số 332/2013/HS-ST, ngày 19/12/2013 của Tòa án nhân dân thành phố M, tỉnh Cà Mau, nên thuộc trường hợp đương nhiên xóa án tích. Cần xác định, bị cáo Diệp Chí K có nhân thân xấu.
[6] Sau khi xem xét tính chất, hậu quả của hành vi phạm tội, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của từng bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có thể cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là bà Nguyễn Thị Anh Đ không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì về dân sự, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Về vật chứng: Qua điều tra xác định: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius màu trắng đen, biển số 59M2-132.73, số khung RLCUE3240- HY076714, số máy: E3X9E201168 do ông Lê Thành C, sinh năm 1993, hộ khẩu thường trú: Số 395/21/11 MP, Phường 10, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Quá trình điều tra đã xác định xe nêu trên là do Công để lại cho ông Võ Hoàng L quản lý. Sau đó, bà Đào mượn xe này từ ông L, nên Hội đồng xét xử quyết định trả lại xe nêu trên cho ông Võ Hoàng L là người quản lý hợp pháp là phù hợp với quy định tại Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Nếu sau này, ông Lê Thành C và ông Võ Hoàng L có tranh chấp về chiếc xe này thì sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.
[9] Về án phí: các Bị cáo mỗi người phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[10] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Thủy và Khoa chưa đủ cơ sở để kết luận, nên Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, tuyên bố: bị cáo Bùi Mạnh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”, xử phạt: bị cáo Bùi Mạnh T 02 (hai) năm tù. Thời gian tù được tính từ ngày bị bắt, tạm giam ngày 26/4/2018.
2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, tuyên bố: bị cáo Diệp Chí K phạm tội “Trộm cắp tài sản”, xử phạt: bị cáo Diệp Chí K 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời gian tù được tính từ ngày bị bắt, tạm giam ngày 26/4/2018.
3. Áp dụng Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tiếp tục tạm giam các bị cáo Bùi Mạnh T và Diệp Chí K 45 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 10/10/2018) để bảo đảm thi hành án.
4. Về vật chứng: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho ông Võ Hoàng L 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius màu trắng đen, biển số 59M2-132.73, số khung RLCUE 3240-HY076714, số máy: E3X9E201168 (Tang vật hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Hòa đang tạm giữ theo
Quyết định chuyển vật chứng số 70/QĐ-VKSĐH ngày 06/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An và biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 101-08/8/2018 ngày 08/8/2018).
5. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Bùi Mạnh T và Diệp Chí K mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
6. Án xử sơ thẩm công khai, báo cho bị cáo có mặt biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày được Tòa án tống đạt hợp lệ bản án.
7. Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
Bản án 95/2018/HS-ST ngày 10/10/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 95/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về