TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 94/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/11/2019 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 12/11/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 157/2019/TLST-HNGĐ ngày 08/3/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 87/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 03/10/2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 67/2019/QĐST-HNGĐ ngày 18/10/2019, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Nh, sinh năm 1997 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp 3, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
- Bị đơn: Anh Quách Hồng M, sinh năm 1990 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp 3, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện ngày 05/3/2019, trong quá trình làm việc, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Nh trình bày: Vào năm 2011, chị và anh M tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân xã Xuân Hòa, huyện Xuân Lộc. Sau khi kết hôn, anh chị sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng hay cãi nhau, anh M ham chơi, thường xuyên uống rượu rồi về nhà kiếm chuyện gây gỗ, đánh đập chị. Anh chị không còn sống chung với nhau từ tháng 4/2016 cho đến nay. Nay chị không còn tình cảm với anh M, do đó yêu cầu được ly hôn.
Về con chung: Anh chị có 02 con chung tên là Quách Bảo M, sinh ngày 28/8/2011 và Quách Bảo N, sinh ngày 16/2/2013. Hiện nay các cháu đang sống cùng với anh M. Khi ly hôn, chị đồng ý giao 02 con cho anh M nuôi, vì bản thân chị không có nghề nghiệp ổn định, đang ở trọ nên không có điều kiện nuôi con. Chị không cấp dưỡng nuôi con cho anh M.
Về tài sản chung: Không có nên không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có.
* Trong quá trình làm việc bị đơn anh Quách Hồng M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do, vì vậy không có lời trình bày.
* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc:
Từ khi thụ lý vụ án đến nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tuân theo đúng quy định pháp luật về tố tụng. Nguyên đơn chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng, bị đơn không chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nh, chị Nh được ly hôn với anh M; Về con chung: giao con chung cho anh M trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi và có khả năng lao động; tài sản chung và nợ chung: Không giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tư cách tham gia tố tụng: Chị Nguyễn Thị Nh có đơn khởi kiện ly hôn với anh Quách Hồng M, do đó xác định chị Nh là nguyên đơn, anh M là bị đơn.
[2] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị Nh có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh Quách Hồng M đã được triệu tập tham gia phiên tòa đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, tiến hành xét xử vắng mặt chị Nh, anh M là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Nh và anh Quách Hồng M tự nguyện đăng ký kết hôn với nhau năm 2011 tại Ủy ban nhân dân xã Xuân Hòa, do đó quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.
[4] Theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.
Xét yêu cầu của nguyên đơn nhận thấy: Chị Nh cho rằng, nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng hay cãi nhau, anh M thường xuyên uống rượu về gây gỗ, đánh đập chị. Anh M đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần để làm việc, cũng như hòa giải, anh M biết việc ly hôn nhưng vẫn vắng mặt không lý do, cho thấy anh M không có thiện chí trong việc hòa giải đoàn tụ vợ chồng. Hơn nữa, theo kết quả xác minh tình trạng hôn nhân của anh chị tại địa phương cho thấy anh chị không còn sống chung với nhau, anh M vẫn đang sống cùng cha mẹ ruột tại ấp 3, xã H còn chị Nh đã chuyển ra ngoài sống riêng. Theo lời khai của ông Quách Hồng Sơn (cha ruột anh M) thì thời gian sống chung với gia đình, anh M, chị Nh hay xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, đánh đập nhau. Nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn thì ông không biết. Chị Nh đã bỏ nhà ra đi từ tháng 4/2016 cho đến nay. Gia đình hai bên đã hòa giải nhưng không có kết quả. Như vậy, chứng tỏ mâu thuẫn giữa anh chị đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nh là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[5] Về con chung: Từ khi anh M, chị Nh không sống chung với nhau cho đến nay thì anh M là người trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung, việc nuôi con chung của anh M là đảm bảo. Mặt khác, cháu Quách Bảo M có nguyện vọng được sống với anh M, chị Nh không có nguyện vọng nuôi con vì chị không có nhà cửa và nghề nghiệp ổn định. Vì vậy, cần thiết giao cháu M và cháu N cho anh M trực tiếp nuôi dưỡng để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của các cháu, là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình và nguyện vọng của con chung.
[6] Về tài sản chung: Chị Nh trình bày không có, anh M không có lời khai, nên không xem xét giải quyết.
[7] Về nợ chung: Chị Nh trình bày không có, anh M không có lời khai, nên không giải quyết.
[8] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Nh phải nộp 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các Điều 28, 35, 39, 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 9, 11 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 131, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về Án phí và Lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Nh ly hôn anh Quách Hồng M.
2. Về con chung: - Giao cháu Quách Bảo M, sinh ngày 28/8/2011 và Quách Bảo N, sinh ngày 16/2/2013 cho anh Quách Hồng M trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.
Tạm miễn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho chị Nguyễn Thị Nh.
Sau khi ly hôn, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chung được pháp luật bảo vệ.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Không giải quyết.
4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Nh phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu số 007197 ngày 05/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc được chuyển thành án phí.
Chị Nguyễn Thị Nh, anh Quách Hồng M được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án 94/2019/HNGĐ-ST ngày 12/11/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 94/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 12/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về