Bản án 93/2020/DS-ST ngày 29/04/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 93/2020/DS-ST NGÀY 29/04/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 29 tháng 4 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 640/2019/TLST-DS ngày 04 tháng 12 năm 2019; về tranh chấp “Hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2020/QĐXXST-DS ngày 28 tháng 02 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số: 30/2020/QĐST-DS ngày 17 tháng 3 năm 2020 và Quyết định tạm ngừng phiên tòa số: 51/2020/QĐST-DS ngày 03 tháng 4 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng A; địa chỉ trụ sở chính: Đường B, Phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh; địa chỉ liên hệ: Đường E, Phường G, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh; đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Minh T; chức vụ: Tổng giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Vũ Thị Anh Đ; chức vụ: Giám đốc Phòng quản lý nợ (Giấy ủy quyền số: 1134/UQ-QLN.18 ngày 25 tháng 10 năm 2018); bà Trần Ngọc Trâm A; chức vụ: Nhân viên (Giấy ủy quyền số: 129/UQ-QLN.19 ngày 22 tháng 04 năm 2019); địa chỉ liên lạc: Đường E, Phường G, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh, (vắng mặt, có đơn xin vắng mặt).

Bị đơn: Ông Nguyễn Trung H, sinh năm 1985; địa chỉ thường trú: Đường H, phường I, Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh; địa chỉ cư trú hiện tại: Đường L, Phường M, quận N, Thành phố Hồ Chí Minh, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 22 tháng 4 năm 2019, bản tự khai, các lần làm việc tại Tòa án và các bản sao kê, nguyên đơn là Ngân hàng A (sau đây gọi tắt là Ngân hàng) do bà Vũ Thị Anh Đ và bà Trần Ngọc Trâm A là đại diện theo ủy quyền trình bày: Ngày 18 tháng 5 năm 2017 ông Nguyễn Trung H có ký với Ngân hàng Hợp đồng cấp tín dụng trả góp số BHA.CN.368.180517 (số tài khoản vay: 238342069), chi tiết như sau: Số tiền cho vay là 50.000.000 đồng, giải ngân bằng cách chuyển tiền vào tài khoản của ông H tại Ngân hàng, thời hạn vay là 36 tháng kể từ ngày kế tiếp ngày bên được cấp tín dụng nhận được tiền vay, mục đích vay là để hỗ trợ tiêu dùng, cho vay từng lần, lãi suất tính theo dư nợ ban đầu: 8,20%, lãi suất theo dư nợ vay thực tế: 15,96%, lãi suất quá hạn: 150%, lãi suất phạt chậm trả lãi: 10%. Trong quá trình vay vốn, ông H đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ. do đó ngày 19/02/2019, Ngân hàng đã ra thông báo thu hồi nợ trước hạn đối với toàn bộ số nợ vay còn lại chưa thanh toán của ông H.

Tính đến ngày 29/4/2020, ông H còn nợ Ngân hàng các khoản sau:

- Vốn: 33.332.000 đồng.

- Lãi trong hạn: 3.340.000 đồng.

- Lãi quá hạn: 9.203.961 đồng.

- Phạt chậm trả: 25.111 đồng. Tổng cộng: 45.901.072 đồng.

Ngân hàng yêu cầu Tòa án xem xét và phán quyết:

Buộc ông Nguyễn Trung H trả cho Ngân hàng tổng số nợ trên, tính đến ngày 29/4/2020 là 45.901.072 đồng và tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất nợ quá hạn do các bên thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng kể từ ngày 30/4/2020 đến ngày ông H trả hết nợ.

Trong thời hạn chuẩn bị xét xử Tòa án đã thông báo về việc thụ lý vụ án, triệu tập hợp lệ ông Nguyễn Trung H tới Tòa án tham gia tố tụng, nhưng ông H không tới nên Tòa án không ghi được lời khai của ông H.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp phát biểu ý kiến: Tòa án đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn chưa thực hiện đúng quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Viện kiểm sát không có kiến nghị về thủ tục tố tụng.

Về nội dung: Ngân hàng A đã ký kết Hợp đồng tín dụng với ông Nguyễn Trung H theo như nội dung vụ án đã trình bày, yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận.

Bởi các lẽ trên, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên: Ông Nguyễn Trung H phải thanh toán cho Ngân hàng A số tiền nợ gốc và lãi suất phát sinh theo thỏa thuận trong Hợp đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Về tố tụng:

[3] Ngày 18 tháng 5 năm 2017 ông Nguyễn Trung H có ký với Ngân hàng Hợp đồng cấp tín dụng trả góp với Ngân hàng A (sau đây gọi tắt là Ngân hàng) để vay tiền, do đó có cơ sở xác định giữa ông H và Ngân hàng có giao kết hợp đồng dân sự vay tài sản như quy định tại Điều 463 Bộ luật dân sự năm 2015. Do ông H không trả tiền vay nên Ngân hàng khởi kiện, quan hệ tranh chấp này là tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự. Ông H cư trú tại quận Gò Vấp, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp.

[4] Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án đã tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, triệu tập ông H tới Tòa án để giải quyết vụ án, do ông H không tới Tòa theo triệu tập của Tòa án nên Tòa án không ghi được lời khai của ông H và không tiến hành hòa giải được. Tòa án đã tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, Quyết định tạm ngừng phiên tòa và giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhưng ông H không tới tham gia tố tụng mặc dù đã được tống đạt, triệu tập hợp lệ. Căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông H.

[5] Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn.

[6] Về nội dung:

[7] Đối với yêu cầu của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy: Căn cứ vào Hợp đồng cấp tín dụng trả góp ông H ký với Ngân hàng ký ngày 18 tháng 5 năm 2017, Ngân hàng đã giải ngân bằng cách chuyển tiền vào tài khoản của ông H tại Ngân hàng. Sau khi được cấp tín dụng ông H đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Do đó ngày 19/02/2019, Ngân hàng đã ra thông báo thu hồi nợ trước hạn đối với toàn bộ số nợ vay còn lại chưa thanh toán của ông H.

[8] Tính đến ngày 29 tháng 4 năm 2020, ông H còn nợ Ngân hàng tổng số tiền là 45.901.072 đ (bốn mươi lăm triệu chín trăm lẻ một ngàn không trăm bảy mươi hai đồng), trong đó nợ gốc là 33.332.000 đồng, lãi trong hạn là 3.340.000 đồng, lãi quá hạn là 9.203.961 đồng, phạt chậm trả là 25.111 đồng.

[9] Nay nguyên đơn yêu cầu Tòa án xem xét buộc ông H phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán một lần toàn bộ số nợ tính đến ngày 29 tháng 4 năm 2020.

[10] Ngoài ra ông H phải thanh toán cho Ngân hàng tiền lãi phát sinh theo quy định tại Hợp đồng đã ký kể từ ngày 30 tháng 4 năm 2020 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản nợ.

[11] Sau khi xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và trình bày của đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, xét thời điểm giao kết và thực hiện hợp đồng, Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định tại khoàn 2 Điều 3 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì: “Trường hợp có quy định khác nhau giữa luật này và các luật khác có liên quan về thành lập, tổ chức, hoạt động, kiểm soát đặc biệt, tổ chức lại, giải thể tổ chức tín dụng; việc thành lập, tổ chức, .. thì áp dụng theo quy định của Luật này”, theo quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì: “Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật”. Do vậy, đối với hợp đồng vay tài sản mà một bên là tổ chức tín dụng thì lãi suất của hợp đồng được thực hiện theo thỏa thuận, Hội đồng xét xử xét lãi suất của Hợp đồng tín dụng mà các bên đã ký kết phù hợp với quy định của pháp luật, thấy yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa Hội đồng xét xử thống nhất:

[13] Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc ông H phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán toàn bộ số nợ tính đến ngày 29 tháng 4 năm 2020 là 45.901.072 đ (bốn mươi lăm triệu chín trăm lẻ một ngàn không trăm bảy mươi hai đồng), trong đó nợ gốc là 33.332.000 đồng, lãi trong hạn là 3.340.000 đồng, lãi quá hạn là 9.203.961 đồng, phạt chậm trả là 25.111 đồng, thanh toán ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

[14] Kể từ ngày 30 tháng 4 năm 2020 ông H còn phải chịu khoản tiền lãi tương ứng với số tiền còn nợ theo Hợp đồng tại thời điểm thanh toán cho đến khi thanh toán hết nợ.

[15] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên ông H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là: 45.901.072 đ x 5% = 2.295.054 đồng, nguyên đơn không phải chịu án phí sơ thẩm, hoàn lại số tiền 944.566 đ (chín trăm bốn mươi bốn ngàn năm trăm sáu mươi sáu đồng) cho Ngân hàng A mà nguyên đơn đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số: AA/2019/0025150 ngày 04 tháng 12 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 - Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 150, Điều 203, Điều 207, Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ vào Điều 463, khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015.

- Căn cứ vào khoản 2 Điều 3, khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

- Buộc ông Nguyễn Trung H phải thanh toán cho Ngân hàng A số tiền 45.901.072 đ (bốn mươi lăm triệu chín trăm lẻ một ngàn không trăm bảy mươi hai đồng), trong đó nợ gốc là 33.332.000 đồng, lãi trong hạn là 3.340.000 đồng, lãi quá hạn là 9.203.961 đồng, phạt chậm trả là 25.111 đồng, thanh toán ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày 30 tháng 4 năm 2020 ông H còn phải chịu khoản tiền lãi tiền lãi phát sinh tương ứng với số tiền còn nợ tại thời điểm thanh toán theo quy định tại Hợp đồng cấp tín dụng trả góp số BHA.CN.368.180517 (số tài khoản vay:

238342069) đã ký với Ngân hàng A cho đến khi thanh toán hết nợ.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: ông Nguyễn Trung H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 2.295.054 đ (hai triệu hai trăm chín mươi lăm ngàn không trăm năm mươi bốn đồng). Nguyên đơn không phải chịu án phí sơ thẩm, hoàn lại số tiền 944.566 đ (chín trăm bốn mươi bốn ngàn năm trăm sáu mươi sáu đồng) cho Ngân hàng A mà nguyên đơn đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số: AA/2019/0025150 ngày 04 tháng 12 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Thi hành tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo các quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2020/DS-ST ngày 29/04/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:93/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về