Bản án 93/2019/HS-ST ngày 22/11/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BÀ RỊA, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 93/2019/HS-ST NGÀY 22/11/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bà Rịa–Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 97/2019/TLST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Phan Văn N; sinh năm 1965 tại Bến Tre; Nơi cư trú: xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 3/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; Cha: Phan Văn N (chết), Mẹ: Nguyễn Thị L (chết); Bị cáo có vợ tên Võ Thị C và có 02 con (con lớn sinh năm 1992, con nhỏ sinh năm 1994); tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ ngày 07/9/2019; tạm giam ngày 13/9/2019. (Có mặt)

- Bị hại: Bà Trần Thị V, sinh năm 1968; Địa chỉ: xã N, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (Có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Vũ Thị H, sinh năm 1976; Địa chỉ: phường T, quận T2, Tp Hồ Chí Minh. (Có đơn xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 8/2019 Phan Văn Nh quen biết và nảy sinh tình cảm với bà Trần Thị V, thời gian sau hai người sống chung tại nhà của bà V và cùng đi làm thợ hồ với nhau. Vào khoảng 12 giờ ngày 29/8/2019 tại nơi làm việc là công trình xây dựng tịnh xá N thuộc phường L, thành phố B. Do có ý định chiếm đoạt chiếc xe máy hiệu Sirius biển số 72F1-475.82 của bà V để đi cầm cố lấy tiền tiêu xài, nên N nói dối với bà V mượn xe đi mua cà phê sau đó chạy lên Tp.Hồ Chí Minh, trên đường đi N có gọi điện thoại cho bà V nói mượn xe đi thành phố mấy hôm rồi mang về trả. Ngày 04/9/2019 N mang xe đến tiệm cầm đồ “Hương Pháp 1” của bà Vũ Thị H cầm được 9.000.000 đồng, có tiền N ăn nhậu và mua vé số hết. Sau nhiều lần liên lạc không được, bà V có nhắn tin nói N cho mượn lại chứng minh nhân dân của mình để ở xe thì N liên lạc lại và ngỏ ý muốn mượn bà V 10.000.000 đồng để chuộc xe, bà V đồng ý. Ngày 07/9/2019 khi N và bà V gặp nhau tại thành phố B, được bà V khuyên nên N đến cơ quan Công an đầu thú.

Tại bản kết luận định giá số 57/KL ngày 24/9/2019 của Hội đồng định giá tài sản thành phố B kết luận 01 xe máy hiệu Sirius, biển số 72F1-475.82 trị giá 13.666.000 đồng.

Bà Vũ Thị H khai nhận: Khi N đến cầm xe máy có đưa ra giấy đăng ký xe và giấy chứng minh (phô tô) và nói xe mua lại của người khác chưa sang tên, do cần tiền đưa người nhà đi bệnh viện chợ Rẫy, nên bà H đồng ý và hoàn toàn không biết chiếc xe do N lừa đảo mà có.

Về thu giữ và xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ 01 xe máy biển số 72F1-475.82 đứng tên bà Trần Thị V; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen trắng của bị cáo N. Hiện chiếc xe máy đã trao trả lại cho bà V, vật chứng còn lại chuyển Thi hành án chờ xử lý.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận lại tài sản bà Trần Thị V không yêu cầu gì thêm. Trước khi mở phiên tòa bà Vũ Thị H có ý kiến về việc không yêu cầu bị cáo phải bồi thường lại tiền cầm xe.

Tại bản cáo trạng số 102/CT-VKSBR ngày 08/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố Phan Văn N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về kết luận giám định hay các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Tại phiên tòa hôm nay, trên cơ sở việc xét hỏi và tranh luận công khai, dân chủ thể hiện:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phan Văn N và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù; Về xử lý vật chứng: trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia; Về bồi thường thiệt hại: không xem xét giải quyết.

Ý kiến của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo không tranh luận gì thêm mà chỉ đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Ý kiến của bị hại: Đề nghị Hội đồng xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ và đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên;

Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, từ đó đủ cơ sở kết luận:

Phan Văn N có mối quan hệ quen biết với bà Trần Thị V, do có ý định chiếm đoạt tài sản từ trước nên vào khoảng 12 giờ ngày 29/8/2019, N đã có hành vi gian dối là hỏi mượn bà V chiếc xe máy hiệu Sirius biển số 72F1- 475.82 trị giá 13.666.000 đồng để đi mua cà phê nhưng thực tế mang xe lên thành phố Hồ Chí Minh cầm cố cho bà Vũ Thị H được 9.000.000 đồng tiêu xài cá nhân. Hành vi của bị cáo N thực hiện đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra: Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo là người có gia đình, nhưng vẫn chung sống với người khác và lợi dụng mối quan hệ đó để chiếm đoạt tài sản của họ. Vì vậy, cần có hình phạt nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội và có tính răn đe nhằm giáo dục bị cáo trở thành người tốt.

[4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo là thành phần lao động có nhân thân tốt, phạm tội do suy nghĩ nhất thời chỉ để thỏa mãn nhu cầu tiêu xài cá nhân; sau khi phạm tội đã ra đầu thú; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã thu hồi và trả lại. Do đó cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[5] Về bồi thường thiệt hại: Bà V và bà H không có yêu cầu gì đối với bị cáo nên không xem xét giải quyết.

[6] Về xử lý vật chứng: Bà Trần Thị V đã nhận lại chiếc xe và không yêu cầu gì thêm; Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Nokia màu đen trắng thu giữ của bị cáo N, xác định bị cáo chỉ sử dụng liên lạc cá nhân nên cần giao trả lại.

[7] Bị cáo phải nộp án phí theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[8] Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phan Văn N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

1. Căn cứ khoản 1 Điều 174; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phan Văn N 09 (Chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/9/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Trả lại cho bị cáo Phan Văn N 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen trắng. (Theo biên bản giao vật chứng ngày 08/11/2019)

3. Về án phí: Buộc bị cáo Phan Văn N nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

4. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm (Người vắng mặt tại tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2019/HS-ST ngày 22/11/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:93/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bà Rịa - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về