Bản án 148/2019/HSST ngày 08/05/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 148/2019/HSST NGÀY 08/05/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 45/2019/HSST ngày 17/01/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1750/2019/QĐST-HS ngày 19 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Okorie Christian U; giới tính: Nam; sinh ngày 13/01/1984; tại: O; quốc tịch: N; hộ chiếu số: A08854794 do Cộng hòa liên bang N cấp ngày 02/01/2018; tôn giáo: Thiên Chúa; trình độ học vấn: Tiểu học; nghề nghiệp: tự do; nơi cư trú: N; chỗ ở: phòng 01 Lô B chung cư S, Quốc lộ 1A, Khu phố 5, phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh; con ông Okasa A, sinh năm 1950 (chết) và bà Mkara B, sinh năm 1962; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không.

- Bị bắt, tạm giam từ ngày 08/05/2018 – Có mặt.

Những người tham gia tố tụng khác:

+Bị hại:

1. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1975; địa chỉ: số 02 Nguyễn Văn a, Phường 2, thành phố b, tỉnh Lâm Đồng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bà Nguyễn Thị R, sinh năm 1984; địa chỉ: 03 Nguyễn Thần H, Phường 18, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

+Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1972; địa chỉ: Ấp 3, tổ 152, đường W xã Q, quận y, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

2. Bà Trần Trịnh Huyền E, sinh năm 1985; địa chỉ: 03 ấp Chánh I, xã TX, huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

3. Bà Đặng Thị S, sinh năm 1977; địa chỉ: Ấp 05, xã TH, huyện TC, tỉnh Tây Ninh (có mặt).

4. Bà Hồ Thị Mai I, sinh năm 1981; địa chỉ: 06 Trần Văn Đ, phường 11, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

5. Bà Nguyễn Thị Thu G, sinh năm 1988;

6. Bà Trịnh Thị P, sinh năm 1956;

Cùng cư trú tại địa chỉ: 07 Trịnh ĐT, phường PT, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

+Người phiên dịch: Ông Võ Hồng t, sinh năm 1992; địa chỉ: 08 Lê VS, Phường 13, quận PN, Thành phố Hồ Chí Minh , (có mặt)` .

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 05/5/2018, bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1975, ngụ tại số 02 Nguyễn Văn a, Phường 2, thành phố b, tỉnh Lâm Đồng có đơn tố giác gửi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh (PC03) về việc: Đầu tháng 4/2018, bà T kết bạn với một người sử dụng facebook có tên DH, tự giới thiệu là người Mỹ sinh sống tại London, Anh Quốc. Sau thời gian trò chuyện, DH hứa hẹn giao cho bà T số tiền 1.500.000 USD để đầu tư bất động sản tại Việt Nam. Sau đó, có một đối tượng tự xưng là nhân viên Hải quan sân bay, sử dụng điện thoại số 01629392xxx và gửi email yêu cầu bà T đóng phí để nhận số tiền 1.500.000 USD nêu trên. Do tin tưởng nên bà T đã 04 lần chuyển tiền, tổng cộng 959.229.700 đồng vào các tài khoản cá nhân, cụ thể: Ngày 23/4/2018, bà T nộp tiền 02 lần, tổng cộng 159.000.000đ vào tài khoản (TK) số 5710205032102 của Đặng Thị S mở tại Ngân hàng Agribank - Chi nhánh Khu vực mía đường Tân Hưng; Ngày 27/4/2018, bà T chuyển khoản số tiền 516.518.750 đồng vào TK số 117624633 của Trần Trịnh Huyền E mở tại Ngân hàng VPBank; Ngày 03/5/2018, bà T nộp số tiền 283.710.950 đồng vào TK số 14710000302680 của Nguyễn Thị V mở tại Ngân hàng BIDV - Chi nhánh 1. Sau khi nộp số tiền 959.229.700 đồng, bà T không nhận được tiền như DH hứa hẹn.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị V (chủ TK số 14710000302680) khai nhận: Khoảng tháng 8/2017, qua ứng dụng Zalo, V (tài khoản tên “Đẹp”) quen biết một người đàn ông gốc Phi xưng tên Chuks (tên thật là Okorie Christian U là bị can trong vụ án), tự giới thiệu buôn bán giày dép và sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hai người đã gặp mặt và nảy sinh quan hệ tình cảm. Đến tháng 02/2018, Chuks quay lại Việt Nam tìm V và yêu cầu đứng tên mở dùm tài khoản ngân để khách hàng của Chuks gửi tiền vào. Ngày 27/1018, V đến Ngân hàng BIDV - Chi nhánh 1 đăng ký mở TK, số điện thoại đăng ký là 0976532501 và được cấp TK số 14710000302680 cùng thẻ Mastercard số 5119570169364113. Khi nhận được thẻ, V đã đưa thẻ Mastercard cùng thẻ sim điện thoại đăng ký cho Chucks để quản lý và sử dụng. Ngày 04/5/2018, V nhận được tin nhắn qua Zalo của Chuks cho biết khách hàng của Chuks đã chuyển tiền vào TK, yêu cầu V đến Ngân hàng BIDV - Chi nhánh 1 để rút về đưa lại cho Chuks.

Ngày 08/5/2018, V đã đến Ngân hàng BIDV - Chi nhánh 1 (địa chỉ số 2 Đường 1, Phường 12, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh) để rút số tiền 499.000.000 đồng có trong TK số 14710000302680. Sau khi rút tiền xong, trong lúc Nguyễn Thị V đưa tiền cho Chuks (U) tại tại khu vực phía trước Ngân hàng thì bị bắt giữ quả tang, thu giữ: số tiền 499.000.000 đồng; 02 điện thoại di động có gắn các thẻ sim thuê bao điện thoại số 01699705095, 01685730243, 0976532501; và 01 thẻ USB.

Qua kiểm tra dữ liệu trong 02 điện thoại di động và 01 thẻ USB, Cơ quan điều tra phát hiện:

Đoạn tin nhắn qua ứng dụng Whatsapp giữa U và đối tượng có tên “Oboy Cambodia”, trong đó: Oboy gửi cho U ảnh chụp các giấy nộp tiền thể hiện nội dung ngày 03/5/2018 có 03 người đã chuyển tiền vào TK số 14710000302680 của Nguyễn Thị V mở tại Ngân hàng BIDV, cụ thể: Bà Nguyễn Thị T nộp số tiền 283.710.950 đồng qua Ngân hàng BIDV; Bà Nguyễn Thị R nộp số tiền 150.900.000 đồng qua Ngân hàng BIDV; Bà Lô Thị Phương n chuyển khoản hai lần, lần lượt là 13.726.000 đồng và 50.000.000 đồng qua Ngân hàng Quân đội.

Quá trình điều tra, Okorie Christian U khai nhận: Tháng 5/2017, Okorie quen biết đối tượng tên K (tên thường gọi là Oboy, người Nigeria, sinh sống tại Campuchia, số điện thoại +855964276021) tại một quán bar trên đường Bùi Viện, Quận 1. Khoảng tháng 02/2018, Okorie quay trở lại Việt Nam và gặp lại Oboy, đối tượng này đề nghị Okorie mở TK ngân hàng để Oboy sử dụng, Oboy sẽ kết bạn với những phụ nữ Việt Nam để những người này chuyển tiền vào. Tuy nhiên, cụ thể Oboy lừa đảo thế nào thì Okorie không biết. Ban đầu Oboy đồng ý trả 20 - 40% số tiền rút được nhưng sau đó giảm xuống 10%. Do đã quen biết Nguyễn Thị V (tức “Đẹp”) từ trước nên Okorie nói bản thân cần TK ngân hàng để giao dịch với khách hàng, nhờ V mở TK để Okorie sử dụng. Sau khi được Ngân hàng BIDV cấp TK, V đã giao lại thẻ Mastercard cùng với thẻ sim điện thoại đăng ký với ngân hàng cho Okorie sử dụng, Okorie chuyển thông tin TK cho Oboy. Ngày 03/5/2018, qua ứng dụng WhatsApp, Oboy gửi các ảnh chụp các giấy nộp tiền của các phụ nữ Việt Nam vào tài khoản do V mở, tổng cộng khoảng 500.000.000 đồng, yêu cầu Okorie đi rút tiền. Do số tiền lớn nên Okorie yêu cầu V đến ngân hàng để rút tiền mặt giao cho Okorie. Ngày 08/5/2018, sau khi V rút số tiền 499.000.000 đồng từ TK số 14710000302680 đang giao cho Okorie thì bị bắt quả tang.

- Đoạn tin nhắn qua ứng dụng Zalo giữa Okorie (“Chuks”) và V (“Đẹp”) thể hiện việc Okorie gửi các phiếu nộp tiền cho V và cho biết đó là tiền khách hàng của Okorie gửi vào, yêu cầu V đến ngân hàng rút tiền mặt giao lại cho Okorie.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị V khai nhận về việc mở TK và rút tiền đưa lại cho Okorie như nội dung nêu trên và bản thân không được Okorie trả công để mở tài khoản, rút tiền, không biết mục đích sử dụng TK ngân hàng để chiếm đoạt tài sản. Lời khai của V phù hợp với lời khai của Okorie.

Kết quả xác minh tại Ngân hàng BIDV - Chi nhánh 1: Ngày 27/1018, Ngân hàng BIDV - Chi nhánh 1 cấp TK số 14710000302680 cho Nguyễn Thị V, sinh ngày 12/6/1972, CMND số 220829670 do Công an tỉnh Khánh Hòa cấp ngày 02/01/2008, số điện thoại đăng ký 0976532501.

Từ khi mở TK cho đến ngày 08/5/2018, TK 14710000302680 phát sinh các giao dịch nộp tiền: Ngày 27/1018, Nguyễn Thị V nộp tiền mặt số tiền 50.000 đồng; Ngày 07/4/2018, người có tên James Eze (không rõ lai lịch) nộp tiền mặt số tiền 500.000 đồng; Ngày 18/4/2018, phát sinh giao dịch chuyển khoản số tiền 500.000 đồng; Ngày 03/5/2018, bà Nguyễn Thị Trâm nộp tiền mặt số tiền 150.900.000 đồng; Ngày 03/5/2018, phát sinh giao dịch chuyển khoản số tiền 13.726.000 đồng; Ngày 03/5/2018, phát sinh giao dịch chuyển khoản số tiền 50.000.000 đồng; Ngày 03/5/2018, bà Nguyễn Thị T nộp tiền mặt số tiền 283.710.950 đồng.

Từ khi mở tài khoản cho đến ngày 08/5/2018, TK 14710000302680 phát sinh 01 giao dịch rút tiền mặt số tiền 499.000.000 đồng.

Đối với các giao dịch chuyển khoản vào tài khoản trên, do BIDV không phải là ngân hàng chuyển khoản nên không thể cung cấp được các chứng từ giao dịch. Xác minh nội dung tin nhắn qua ứng dụng Whatsapp giữa Okorie và đối tượng “Oboy”, xác định có Lô Thị Phương Nam chuyển khoản 2 lần, lần lượt là 13.726.000 đồng và 50.000.000 đồng vào TK của Nguyễn Thị T qua Ngân hàng Quân đội. Tuy nhiên, phía Ngân hàng Quân đội không cung cấp thông tin về chủ TK, sao kê giao dịch chuyển khoản nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để triệu tập lấy lời khai Lô Thị Phương Nam.

Kết quả xác minh tại Ngân hàng Agribank - Chi nhánh Khu vực mía đường Tân Hưng: Ngày 15/1018, Ngân hàng Agribank - Chi nhánh Khu vực mía đường Tân Hưng cấp TK số 5710205032102 cho Đặng Thị S, sinh ngày 01/3/1977, CMND số 291188292 do Công an tỉnh Tây Ninh cấp ngày 17/10/2014. Ngày 23/4/2018, bà Nguyễn Thị T nộp tiền 02 lần, tổng cộng 159.000.000 đồng vào tài khoản trên, số tiền này sau đó được rút ra bằng thẻ vào ngày 23/4/2018 tại các máy ATM khác hệ thống nên Ngân hàng Agribank không có hình ảnh để cung cấp. Ngày 24/4/2018, Đặng Thị S đến Ngân hàng Agribank - Chi nhánh Khu vực mía đường Tân Hưng rút tiền mặt số tiền 150.000.000 đồng.

Kết quả xác minh tại Ngân hàng VPBank: Ngày 22/02/2017, Ngân hàng VPBank cấp TK số 117624633 cho Trần Trịnh Huyền Trâm, sinh ngày 25/4/1985, CMND số 024017771 do Công an Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 22/5/2002. Ngày 27/4/2018, bà Nguyễn Thị T nộp số tiền 516.518.750 đồng vào tài khoản nêu trên. Cùng ngày 27/4/2018, Trần Trịnh Huyền Trâm đã đến ngân hàng làm thủ tục rút tiền mặt số tiền 516.500.000 đồng.

Trần Trịnh Huyền Trâm khai: Khoảng tháng 11/2017, qua ứng dụng Tango, Trâm kết bạn với người đàn ông nước ngoài xưng tên Harrison, người Nigeria, hai người đã gặp mặt và nảy sinh quan hệ tình cảm với nhau. Đầu tháng 4/2018, Harrison cho biết đang kinh doanh giày dép nhưng không mở tài khoản ngân hàng được nên nhờ Trâm cho mượn tài khoản số 117624633 tại Ngân hàng VPBank để giao dịch. Cuối tháng 4/2018, Harrison nhắn tin cho biết có số tiền lớn chuyển vào tài khoản và yêu cầu Trâm đến ngân hàng rút tiền. Trâm đồng ý đến ngân hàng rút số tiền 516.500.000 đồng và giao lại cho Harrison. Đến giữa tháng 5/2018, Trâm không còn liên lạc được với Harrison. Trâm khai, bản thân Trâm không được trả công để rút tiền, không biết mục đích sử dụng TK để chiếm đoạt tài sản của Harrison.

Đặng Thị S khai: Tháng 1018, S quen biết một người đàn ông nước ngoài gốc Châu Phi, không rõ tên tuổi, lai lịch, tự giới thiệu bản thân đang kinh doanh quần áo tại Việt Nam. Qua trò chuyện, người này cho biết đang cần tài khoản để nhận tiền của khách hàng nhưng do là người nước ngoài nên không mở tài khoản ngân hàng được nên đề nghị S đứng tên mở tài khoản ngân hàng đưa lại cho người này sử dụng, hứa trả công 2.000.000 đồng. S đã đến Ngân hàng Agribank - Chi nhánh Khu vực mía đường Tân Hưng đăng ký mở tài khoản. Sau khi nhận được thẻ do ngân hàng cấp, S đã đưa thẻ cho người đàn ông gốc Phi và được trả công 2.000.000 đồng. Đến cuối tháng 4/2018, S gặp lại người đàn ông gốc Phi và được biết trong tài khoản do S đứng tên mở có số tiền lớn nên đề nghị S đến ngân hàng rút tiền và hứa trả công 1.000.000 đồng. S đã đến Ngân hàng Agribank - Chi nhánh Khu vực mía đường Tân Hưng rút tiền mặt số tiền 150.000.000 đồng và giao lại cho người đàn ông này và được trả công 1.000.000 đồng. Từ tháng 6/2018, S không còn gặp lại người này và cho rằng không biết mục đích sử dụng tài khoản để chiếm đoạt tài sản của người đàn ông gốc Phi.

Cơ quan điều tra đã yêu cầu Trần Trịnh Huyền Trâm và Đặng Thị S nộp lại số tiền đã rút ra từ tài khoản của mình, cũng như số tiền được hưởng lợi nhưng Trâm và S cho rằng đã giao tiền cho đối tượng nêu trên nên không có tiền để nộp lại.

Ngoài ra, quá trình điều tra xác định bà Nguyễn Thị Trâm là người nộp tiền mặt số tiền 150.900.000 đồng vào TK Nguyễn Thị V mở tại Ngân hàng BIDV vào ngày 03/5/2018. Tại Cơ quan điều tra, bà Trâm khai:

Vào tháng 4/2018, qua mạng xã hội facebook, Trâm quen biết đối tượng xưng tên Alex. Sau một thời gian trò chuyện, Alex cho biết đang làm việc tại Afghanistan có số tiền lớn 1.000.000 USD nhưng lo ngại Afghanistan không an toàn nên đề nghị Trâm nhận giữ hộ, hứa trả công 200.000 USD. Sau đó, có 01 đối tượng tự xưng là nhân viên Hải quan sân bay Nội Bài gọi điện thoại, gửi tin nhắn yêu cầu Trâm đóng phí để nhận số tiền 1.000.000 USD nêu trên. Do tin tưởng nên Trâm đã nhiều lần chuyển tiền theo yêu cầu của đối tượng này vào một số tài khoản cá nhân, tổng cộng khoảng 700.000.000 đồng, trong đó có số tiền 150.900.000 đồng nộp vào TK 14710000302680 của Nguyễn Thị V mở tại Ngân hàng BIDV vào ngày 03/5/2018. Tuy nhiên, bà Trâm hiện không còn lưu giữ thông tin, các tin nhắn với Alex và đối tượng yêu cầu bà nộp phí cũng như không lưu giữ các giấy nộp tiền mà bà đã nộp theo chỉ định của đối tượng.

Trong quá trình điều tra, xác định: U còn sử dụng TK Zalo tên "Chuks" kết bạn với nhiều phụ nữ, yêu cầu những người này mở TK để Okorie sử dụng vào mục đích kinh doanh, trong đó có các tài khoản tên “Đẹp”, “thaonhoxinh” và “Mai I”. Người sử dụng TK Zalo tên “thaonhoxinh”, số điện thoại 0985022053, người này đã nhờ người khác đăng ký TK ngân hàng và đã giao cho Okorie thẻ Visa của TK tên Trịnh Thị P mở tại Ngân hàng Sacombank. Người sử dụng TK Zalo tên “Mai I”, người này đã chuyển cho U thông tin TK thẻ Visa tên Hồ Thị Mai I mở tại Ngân hàng Sacombank nhưng do chưa giao thẻ nên chưa thể sử dụng.

U khai những người này đều không biết U sử dụng các tài khoản để làm gì. V và “Mai Ri” không được trả tiền công, còn “thaonhoxinh” được trả 3.000.000 đồng tiền công mở tài khoản và 2.000.000 đồng tiền công rút tiền.

Hồ Thị Mai I khai: Đầu tháng 4/2018, qua ứng dụng Zalo, I (TK tên “Mai I”) kết bạn với người đàn ông nước ngoài xưng tên Chuks, hai người đã gặp mặt và đi chơi cùng nhau một vài lần. Đến cuối tháng 4/2018, Chucks nhắn tin nhờ I giúp đỡ, đứng tên mở TK ngân hàng và giao TK để Chucks sử dụng vào việc kinh doanh. Ngày 03/5/2018, I đến Ngân hàng Sacombank - Chi nhánh Quận N đăng ký mở tài khoản và được hẹn 01 tuần sau mới có thẻ Visa. Ngày 14/5/2018, I đến ngân hàng nhận thẻ nhưng không liên lạc được với Chuks để giao thẻ Visa. I không được trả công để mở TK và cũng không biết mục đích sử dụng tài khoản của Chuks.

Nguyễn Thị Thu G khai: Tháng 02/2018, qua ứng dụng Zalo, G (đăng ký TK tên “thaonhoxinh”) kết bạn với người đàn ông nước ngoài xưng tên Chuks, hai người đã gặp mặt và nảy sinh quan hệ tình cảm với nhau. Đến tháng 1018, Chuks nhắn tin nhờ G đứng tên mở TK ngân hàng để sử dụng vào việc kinh doanh. Chuks và G thỏa thuận tiền công mở tài khoản là 3.000.000 đồng. G nhờ dì của mình là Trịnh Thị P đi mở tài khoản, hứa trả công 1.000.000 đồng. Sau khi được Ngân hàng Sacombank cấp tài khoản và thẻ, bà P đưa cho G. Sau đó, G đã giao lại cho Chuks sử dụng và đã được trả công 3.000.000 đồng. Đến cuối tháng 4/2018, Chuks nhắn tin cho biết có số tiền lớn trong tài khoản nên yêu cầu G nói chủ tài khoản là bà P rút tiền ra giao lại cho Chuks. Chuks và G thỏa thuận tiền công rút tiền là 2.000.000 đồng, G hứa trả cho bà P 300.000 đồng để đến ngân hàng rút tiền. Sau khi rút được tiền, G và bà P đã giao lại cho Chuks, đã được trả công 2.000.000 đồng. Sau khi trừ số tiền phải nộp vào TK khi đăng ký mở tài khoản và tiền công trả cho bà P, G được thụ hưởng 3.450.000 đồng. Tuy nhiên, G không biết việc sử dụng tài khoản để chiếm đoạt tiền của Chuks.

Trịnh Thị P khai phù hợp với lời khai của Nguyễn Thị Thu G về việc đứng tên mở TK và nhận tiền công mở TK nhưng không biết mục đích sử dụng tài khoản để chiếm đoạt tài sản của U.

Cơ quan điều tra đã tiến hành cho Hồ Thị Mai I, Nguyễn Thị Thu G, Trịnh Thị P, Đặng Thị S và Trần Trịnh Huyền R nhận dạng đối tượng, kết quả: I và G xác định Okorie Christian U chính là người sử dụng tài khoản zalo tên Chuks để kết bạn, yêu cầu I và G mở tài khoản ngân hàng để giao lại cho người này sử dụng vào việc kinh doanh. Yến xác định Okorie Christian U chính là người nước ngoài mà G nói nhờ giúp mở tài khoản ngân hàng và là người đã nhận số tiền do P rút ra. S, H và R không xác định được Okorie Christian U là người đã yêu mở tài khoản, rút tiền.

Vật chứng trong vụ án:

- Số tiền 499.000.000 đồng thu giữ của Okorie; 3.450.000 đồng do Nguyễn Thị Thu G tự nguyện nộp; 1.300.000 đồng tiền mặt do Trịnh Thị P tự nguyện giao nộp (đã được nộp vào tài khoản tạm giữ của Phòng CSĐT Công an Thành phố Hồ Chí Minh (PC03) theo Lệnh nhập kho vật chứng số 265-36 ngày 16/5/2018);

- 01 thẻ Mastercard số 5119570169364113 tên Nguyễn Thị V mở tại Ngân hàng BIDV;

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động ghi hiệu Oppo, đã qua sử dụng; 03 thẻ sim điện thoại số: 01699705095, 01685730243 và 0976532501; 01 thẻ USB đã qua sử dụng - Thu giữ của Okorie Christian U.

Tại bản cáo trạng số 23/CT-VKS-P3 ngày 11/01/2019, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Okorie Christian U về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a Khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố, trình bày lời luận tội, đánh giá tính chất, mức độ và hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra cũng như các tình tiết định khung, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm a Khoản 3 Điều 174; điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Xử phạt bị cáo Okorie Christian U mức án từ 08 - 09 năm tù và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Okorie Christian U không tranh luận, chỉ đề nghị xem xét cho bị cáo hưởng mức án khoan hồng vì đã nhận thức được hành vi sai phạm của mình và gia đình có hoàn cảnh khó khăn, tạo cơ hội cho bị cáo sớm chấp hành án về nước làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phiên tòa, bị cáo Okorie Christian U đã khai nhận toàn bộ hành vi khách quan của mình cùng đồng phạm, nhưng thay đổi lời khai cho rằng mục đích việc cung cấp các số tài khoản cho Oboy sử dụng chuyển tiền là để Oboy giúp bị cáo tiền làm ăn buôn bán quần áo, giày dép chứ không biết những khoản tiền này là tiền bất hợp pháp. Qua đấu tranh, bị cáo Okorie Christian U đã thừa nhận toàn bộ hành vi sai phạm của mình, nội dung phù hợp với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố.

Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo Okorie Christian U tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa về cơ bản phù hợp với: biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật - tài liệu, lời khai của bị hại (Nguyễn Thị T và Nguyễn Thị R), lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (Nguyễn Thị V, Hồ Thị Mai I, Đặng Thị S …), biên bản nhận dạng, cùng các tài liệu, biên bản về hoạt động tố tụng khác của Cơ quan điều tra đã thu thập có tại hồ sơ vụ án.

Vật chứng thu giữ của bị cáo U, qua kiểm tra dữ liệu trong 02 điện thoại di động và 01 thẻ USB, xác định: Đoạn tin nhắn qua ứng dụng Whatsapp giữa U và đối tượng có tên “Oboy Cambodia”, trong đó có nội dung: Oboy gửi cho Okorie ảnh chụp các giấy nộp tiền thể hiện nội dung ngày 03/5/2018, có 03 người đã chuyển tiền vào tài khoản số 14710000302680 của Nguyễn Thị V mở tại Ngân hàng BIDV, gồm: bà Nguyễn Thị T nộp số tiền 283.710.950 đồng qua Ngân hàng BIDV; bà Nguyễn Thị R nộp số tiền 150.900.000 đồng qua Ngân hàng BIDV; và bà Lô Thị Phương n chuyển khoản hai lần, lần lượt là 13.726.000 đồng và 50.000.000 đồng.

Xét, đã có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng tháng 5/2017, Okorie Christian U quen biết đối tuợng K - tên thường gọi Oboy người N (không rõ lai lịch) sinh sống ở Campuchia tại một quán bar trên đường Bùi Viện, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng tháng 02/2018, U quay trở lại Việt Nam và gặp lại Oboy đã đề nghị U mở tài khoản tại ngân hàng để Oboy sử dụng, Oboy sẽ kết bạn với những phụ nữ Việt Nam để lừa đảo dưới hình thức gửi quà, chuyển tiền, đóng phí chuyển tiền vào tài khoản Okorie cung cấp thì sẽ thông báo cho U rút ra chuyển lại cho Oboy, hưởng tiền công từ 20 - 40% số tiền rút được cho những lần đầu, sau đó giảm xuống 10%. Tuy nhiên, cụ thể việc Oboy thực hiện hành vi lừa đảo như thế nào thì U không biết.

Thực hiện ý định, Okorie Christian U đã sử dụng mạng xã hội zalo gửi yêu cầu kết bạn và trực tiếp tiếp cận với các cá nhân là những người phụ nữ Việt Nam như: Nguyễn Thị V, Hồ Thị Mai I, Nguyễn Thị Thu G và Trịnh Thị Yến, có quan hệ tình cảm rồi nhờ cũng như trả công để những người này mở tài khoản tại ngân hàng ở Việt nam đưa cho Okorie Christian U sử dụng và cung cấp cho đối tượng Oboy dùng để nhận chuyển khoản tiền bất hợp pháp do Oboy cùng đồng phạm thực hiện hành vi lừa đảo chuyển vào, rồi thông báo cho Okorie rút ra giao lại Oboy chiếm đoạt và trả công cho Okorie hưởng lợi.

Vào ngày 08/5/2018, Okorie Christian U đã yêu cầu Nguyễn Thị V đến Ngân hàng BIDV - Chi nhánh 1 (địa chỉ số 456 Đường 1, Phường 12, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh) để rút số tiền 499.000.000 đồng có trong TK số 14710000302680 do V đứng tên mở tài khoản nhưng giao lại cho Okorie Christian U sử dụng. Sau khi rút tiền xong, trong lúc Nguyễn Thị V đưa tiền Okorie Christian U (lấy tên là Chuks khi kết bạn trên zalo) tại khu vực phía trước Ngân hàng thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt giữ quả tang, thu giữ số tiền 499.000.000 đồng và toàn bộ vật chứng liên quan.

Xác minh tài khoản số 14710000302680 của Nguyễn Thị V mở tại Ngân hàng BIDV có 03 người đã chuyển tiền vào tài khoản, cụ thể: bà Nguyễn Thị T nộp số tiền 283.710.950 đồng; bà Nguyễn Thị R nộp số tiền 150.900.000 đồng; và bà Lô Thị Phương n chuyển khoản hai lần, lần lượt là 13.726.000 đồng và 50.000.000 đồng qua Ngân hàng Quân đội.

Tuy nhiên, quá trình điều tra chỉ đủ cơ sở để chứng minh bị hại Nguyễn Thị T và Nguyễn Thị R bị các đối tượng không rõ lai lịch có tên DH (tự giới thiệu là người Mỹ sinh sống tại London – Anh Quốc) và Alex (đang làm việc tại Afghanistan) kết bạn thông qua mạng xã hội facebook dùng thủ đoạn gian dối làm bị hại tin tưởng chuyển tiền theo yêu cầu của các đối tượng này vào tài khoản số 14710000302680 của Nguyễn Thị V mở tại Ngân hàng BIDV để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Riêng bà Lô Thị Phương n do Ngân hàng Quân đội không cung cấp thông tin về chủ tài khoản, sao kê giao dịch tài khoản và ngày 13/8/2018, Cơ quan CSĐT Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã có công văn gửi Ban biên tập các Báo (Sài Gòn Giải Phóng, Công an Nhân dân, Công an Thành phố Hồ Chí Minh và Thanh Niên) đăng báo thông báo truy tìm bị hại nhưng đến nay không có người liên hệ giả quyết; nên không có cơ sở xác minh lai lịch và ghi lời khai của bà Lô Thị Phương n để làm rõ khoản tiền này.

Do đó, chỉ đủ cơ sở buộc bị cáo Okorie Christian U chịu trách nhiệm hình sự đối với số tiền bị hại Nguyễn Thị T và Nguyễn Thị R đã bị chiếm đoạt với số tiền tổng cộng là 434.610.950 đồng (283.710.950 đồng + 150.900.000 đồng).

Ngoài ra, bị cáo Okorie Christian U còn khai nhận cũng với thủ đoạn tương tự, trước đó U đã một lần rút tiền gửi cho Oboy qua Campuchia thông qua lái xe khách để hưởng lợi, nhưng không nhớ cụ thể số tiền rút được là bao nhiêu tại Ngân hàng nào và giao tiền cho ai gửi cho Oboy. Nên chưa đủ cơ sở để xem xét, làm rõ buộc Okorie Christian U chịu trách nhiệm hình sự về lần rút tiền này.

Như vậy, với trị giá tài sản chiếm đoạt là 434.610.950 đồng và hành vi của bị cáo Okorie Christian U đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Hành vi phạm tội của bị cáo Okorie Christian U cùng đồng phạm là rất nguy hiểm cho xã hội; không những xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo Okorie Christian U là người có đầy đủ khả năng nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng với động cơ vụ lợi bất chính vẫn cố ý phạm tội.

Xét, bị cáo Okorie Christian U cùng đồng phạm đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản có tổng giá trị 434.610.950 đồng, thuộc trường hợp “Chiếm đoạt tài sản trị giá từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng”, là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo.

Do đó về hình phạt, cần xét xử nghiêm đối với bị cáo Okorie Christian U theo quy định tại điểm a Khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Trong vụ án, bị cáo Okorie Christian U cùng đồng phạm là các đối tượng người nước ngoài (không rõ lai lịch) phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm, trong đó bị cáo giữ vai trò là người giúp sức tích cực, sử dụng mạng xã hội zalo để gửi yêu cầu kết bạn và trực tiếp tiếp cận với các cá nhân là phụ nữ Việt Nam để nhờ cũng như trả công giúp mở tài khoản tại các ngân hàng ở Việt nam rồi cung cấp cho đối tượng Oboy cùng đồng phạm sử dụng thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản và rút ra theo yêu cầu giao lại Oboy để được trả công hưởng lợi. Khi quyết định hình phạt sẽ xem xét đến tính chất, mức độ tham gia phạm tội của bị cáo đồng phạm theo quy định tại Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, về hình phạt đặt ra phải nghiêm, cần có một thời gian đủ dài cách ly xã hội mới có tác dụng để răn đe giáo dục bị cáo nói riêng và công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng xem xét: bị cáo là người nước ngoài phạm tội lần đầu và nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; trong giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, khai báo thành khẩn, cũng phần nào thể hiện sự ăn năn hối cải; tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi toàn bộ để trả cho bị hại nên gây thiệt hại không lớn; để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt đáng ra phải chịu theo quy định tại các điểm h, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố để xét xử với bị cáo Okorie Christian U là có cơ sở pháp luật, đúng người, đúng tội, không oan sai. Mức hình phạt đề nghị xử phạt đối với bị cáo là phù hợp, tuy nhiên có cân nhắc về tính chất, mức độ phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ như nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử để giảm thêm cho bị cáo một phần hình phạt, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

+Về thủ tục tố tụng: trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh) và người tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên) đã thực hiện các quyết định tố tụng và hành vi tố tụng đúng về trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và bị cáo thừa nhận tự nguyện khai báo và không có khiếu nại trong các giai đoạn tiến hành tố tụng; nên đều hợp pháp.

+Về trách nhiệm dân sự: Trong giai đoạn điều tra, Cơ quan điều tra đã thu hồi toàn bộ số tiền 499.000.000 đồng bị cáo cùng đồng phạm chiếm đoạt hiện đang tạm giữ trong vụ án để trả lại cho bà Nguyễn Thị T số tiền 283.710.950 đồng và số tiền 150.900.000 đồng cho bà Nguyễn Thị R.

Tại phiên tòa, bị hại không có yêu cầu bồi thường thêm khoản gì khác nên không đặt vần đề để xem xét giải quyết.

+Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, xét:

- Đối với số tiền 503.750.000 đồng thu giữ trong vụ án, bao gồm: 499.000.000 đồng là tiền bị cáo cùng đồng phạm đã chiếm đoạt trái phép của bị hại nên sử dụng để trả lại cho bà Nguyễn Thị T số tiền 283.710.950 đồng và trả lại cho bà Nguyễn Thị R số tiền 150.900.000 đồng; 3.450.000 đồng do Nguyễn Thị Thu G và 1.300.000 đồng do Trịnh Thị P (tự nguyện nộp lại).

Khoản tiền còn lại 69.139.050 đồng là tiền do đồng phạm của bị cáo phạm tội mà có nhưng không xác định được bị hại và tiền do Nguyễn Thị Thu G, Trịnh Thị P tự nguyện nộp lại (là tiền được Okorie trả công khi mở tài khoản và rút tiền giúp Okorie); nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- 01 điện thoại di động ghi hiệu Iphone đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động ghi hiệu Oppo đã qua sử dụng, là phương tiện liên lạc bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- 01 thẻ Mastercard số 5119570169364113 tên Nguyễn Thị V mở tại Ngân hàng BIDV, 03 thẻ sim điện thoại (số 01699705095, 01685730243 và 0976532501), và 01 thẻ USB đã qua sử dụng - Thu giữ của bị cáo Okorie Christian U, là đồ vật liên quan việc phạm tội và không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy toàn bộ.

+Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Đối với đối tượng tên K (Oboy), Harrison và đối tượng giả danh nhân viên Hải quan sân bay, quá trình điều tra do không xác định được nhân thân, lai lịch đối tượng nên không có cơ sở để xem xét, xử lý.

Đối với Nguyễn Thị V, Hồ Thị Mai I, Nguyễn Thị Thu G và Trịnh Thị P, có hành vi mở tài khoản giúp cho Okorie Christian U; V và P còn đi rút tiền đưa lại cho Okorie Christian U; nhưng V, I, G và P đều không biết mục đích của việc mở tài khoản và rút tiền giúp Okorie Christian U; phù hợp với lời khai của Okorie Christian U nên không liên quan đến hành vi phạm tội của Okorie Christian U cùng đồng phạm. Do đó, Cơ quan điều tra không đưa vào diện xử lý hình sự là phù hợp với quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Okorie Christian U phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ vào điểm a Khoản 3 Điều 174; các điểm h, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt: Bị cáo Okorie Christian U 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính kể từ ngày 08/05/2018.

+ Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Trả lại cho: bà Nguyễn Thị T số tiền 283.710.950đ (hai trăm tám ba triệu, bảy trăm mười nghìn, chín trăm năm mươi đồng) và bà Nguyễn Thị R số tiền 150.900.000đ (một trăm năm mươi triệu, chín trăm nghìn đồng).

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước:

+Số 69.139.050đ (sáu mươi chín triệu, một trăm ba mươi chín triệu không trăm năm mươi đồng);

+01 điện thoại di động ghi hiệu Iphone đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động ghi hiệu Oppo đã qua sử dụng.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 thẻ Mastercard số 5119570169364113 tên Nguyễn Thị V mở tại Ngân hàng BIDV, 03 thẻ sim điện thoại số: 01699705xxx, 01685730xxx, 0976532xxx và 01 thẻ USB đã qua sử dụng (thu giữ của bị cáo Okorie Christian U).

Vật chứng theo biên bản giao nhận tang tài vật số 153/19 ngày 16/01/2019 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh và giấy nộp tiền lập ngày 27/6/2018 nộp vào tài khoản số 3949.0.9058778.00000 tại Kho bạc Nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng CSĐT tội phạm về tham nhũng và kinh tế công an Thành phố Hồ Chí Minh.

+Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Okorie Christian U phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1963
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 148/2019/HSST ngày 08/05/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:148/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về

Bạn Chưa Đăng Nhập Tài khoản!