Bản án 93/2019/HNGĐ-ST ngày 08/08/2019 về yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con  

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUYÊN MỘC, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 93/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/08/2019 VỀ YÊU CẦU LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 08 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 145/2019/TLST-HNGĐ ngày 21/3/2019 về việc: “Yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 82/2019/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số: 74/2019/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị L, sinh năm 1980 (có mặt) Địa chỉ: Tổ 02, ấp Khu I, xã Bình Châu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh BR–VT.

Bị đơn: Ông Đoàn Hồng Đ, sinh năm: 1980 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 04, ấp Khu I, xã Bình Châu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh BR–VT.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 20/3/2019, bản khai, biên bản không tiến hành hòa giải được và tại phiên tòa nguyên đơn bà Huỳnh Thị L trình bày:

Về hôn nhân: Bà Huỳnh Thị L và ông Đoàn Hồng Đ chung sống với nhau từ năm 2016, đến năm 2017 mới đăng ký kết hôn tại UBND xã Bình Châu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Hôn nhân là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai mai mối hay ép buộc. Trước khi kết hôn bà L và ông Đ có thời gian tìm hiểu nhau khoảng 06 tháng và được hai bên gia đình đồng ý nhưng bà L và ông Đ không tổ chức lễ cưới.

Sau khi kết hôn, bà L và ông Đ chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2019 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn trầm trọng và kéo dài cho đến ngày hôm nay.

Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống từ đó vợ chồng thường xuyên cải vã nhau. Cuộc sống vợ chồng từ đó không còn hạnh phúc như trước, mặc dù vợ chồng đã cố gắng khắc phục nhưng không được. Ngoài ra, ông Đ là chồng nhưng không lo cho gia đình và cũng không biết quan tâm đến vợ con. Bà L đã khuyên ông Đ nhiều lần và đã từng làm đơn yêu cầu ly hôn nhưng sau đó rút đơn về vì muốn cho ông Đ cơ hội sửa đổi nhưng ông Đ vẫn chứng nào tật đó không chịu thay đổi. Từ đầu năm 2019 cho đến nay, bà L và ông Đ sống ly thân không còn quan hệ gì về mọi mặt từ kinh tế cho đến chuyện tình cảm.

Nay bà L xét thấy tình cảm vợ chồng giữa bà L và ông Đ thực sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà L yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà L được ly hôn với ông Đ.

Về con chung: Bà Huỳnh Thị L và ông Đoàn H Đ có 01 con chung là Đoàn Huỳnh Hải Đăng, sinh ngày: 12/10/2017. Con chung đang sống cùng với bà L, bà L có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông Đ phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Bà Huỳnh Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà Huỳnh Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết Đối với ông Đoàn H Đ, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng, cụ thể như: Thông báo về việc thụ lý vụ án, các thông báo về việc mở phiên họp giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử để ông Đ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, cũng như tham gia phiên tòa nhưng ông Đ đều vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng đã chấp hành đúng các quy định của luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn không chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình, cụ thể là vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên đề nghị Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt ông Đ theo quy của pháp luật.

Về hôn nhân, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về con chung, xét yêu cầu của bà L là có căn cứ nên giao con chung cho bà L nuôi dưỡng vì con chung còn nhỏ cần phải có sự chăm sóc của mẹ, bà L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét. Về tài sản chung và nợ chung, bà L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên. Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc nhận định:

[1]. Về thẩm quyền giải quyết và quan hệ tranh chấp: Bà Huỳnh Thị L yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Đoàn H Đ và yêu cầu giải quyết về con chung. Ông Đ có nơi cư trú tại xã Bình Châu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nên xác định quan hệ tranh chấp của vụ án là “Yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Căn cứ giấy chứng nhận kết hôn số 190 ngày 21/11/2017 của Ủy ban nhân dân xã Bình Châu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xác định, hôn nhân của bà L và ông Đ là hợp pháp. Sau khi kết hôn thì bà L và ông Đ chung sống hạnh phúc, đến đầu năm 2019 thì vợ cH phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ cH bất đồng quan điểm nên vợ chồng thường xuyên cải vã nhau. Ngoài ra, ông Đ là chồng nhưng không lo làm ăn, không quan tâm đến vợ con. Việc này, bà L đã khuyên nhũ ông Đ nhiều lần và bà L cũng đã một lần làm đơn yêu cầu ly hôn và sau đó rút đơn về để cho ông Đ cơ hội tự sửa đổi nhưng ông Đ vẫn không thay đổi. Hiện nay, bà L và ông Đ đã sống ly thân không còn quan hệ gì về mọi mặt từ kinh tế cho đến tình cảm.

[3] Qua xác minh cho thấy, trong thời gian bà L và ông Đ chung sống tại địa phương thì bà L và ông Đ xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn xuất phát từ vấn đề kinh tế, ông Đ là chồng nhưng không lo cho vợ con, mọi vấn đề kinh tế đều do một tay bà L lo lắng. Nay bà L yêu cầu ly hôn thì đề nghị Tòa án căn cứ theo quy định của pháp luật để giải quyết.

[4] Xét thấy mâu thuẫn giữa bà Huỳnh Thị L và ông Đoàn Hồng Đ đã đến mức trầm trọng, tình cảm vợ chồng thực sự không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt nên áp dụng Điều 56, Điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà L đối với ông Đ.

[5]. Về con chung: Bà Huỳnh Thị L và ông Đoàn Hồng Đ có 01 con chung là Đoàn Huỳnh Hải Đăng, sinh ngày: 12/10/2017. Con chung đang ở với bà L, bà L có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung. Xét yêu cầu của bà L thì thấy, bà L hiện có công việc và thu nhập đủ đảm bảo cho việc nuôi dạy và chăm sóc con chung nên giao con chung cho bà L nuôi dưỡng là phù hợp, đảm bảo sự phát triển toàn diện của con theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Về yêu cầu cấp dưỡng, bà L không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con nên tạm thời ông Đ không phải cấp dưỡng nuôi con. Riêng đối với ông Đ, từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử, ông Đ không đến tòa và không thể hiện ý kiến của mình nên hội đồng xét xử căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để giải quyết vụ án, nếu sau này ông Đ có yêu cầu thay đổi thì làm đơn khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định.

[6]. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Huỳnh Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Bà Huỳnh Thị L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56, khoản 1 Điều 57 và các Điều 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị L, bà L được ly hôn với ông Đoàn Hồng Đ.

2. Về con chung: Bà Huỳnh Thị L và ông Đoàn Hồng Đ có 01 (một) con chung là Đoàn Huỳnh Hải Đăng, sinh ngày: 12/10/2017. Con chung đang ở cùng với bà L, bà L được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Bà L không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con nên tạm thời ông Đ không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên; người không trực tiếp nuôi dưỡng có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; cha mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc chăm nom, chăm sóc, giáo dục con.

Vì quyền lợi của con chung, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng con chung hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Huỳnh Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Bà Huỳnh Thị L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) bà L đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0007920 ngày 20 tháng 3 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuyên Mộc. Bà L đã nộp đủ án phí, ông Đ không phải nộp án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết theo quy định để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2019/HNGĐ-ST ngày 08/08/2019 về yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con  

Số hiệu:93/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về