Bản án 49/2017/HNGĐ-ST ngày 08/08/2018 về yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P- TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 49/2017/HNGĐ-ST NGÀY 08/08/2017 VỀ YÊU CẦU LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 08 tháng 8 năm 2018 tại Toà án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 199/2018/TLST- HNGĐ ngày 29 tháng 3 năm 2018 về việc: “Yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2018/QĐXXST - HNGĐ ngày 10/7/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 45/QĐST - HNGĐ ngày 25 tháng 7 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Quách Công B, sinh năm 1976; Địa chỉ: 58/77 Phạm Văn Đ, tổ 2, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1987; Địa chỉ: 58/77 Phạm Văn Đ, tổ 2, phường H, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 20 tháng 3 năm 2018, quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn anh Quách Công B trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị T tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai vào ngày 10/9/2012. Trong quá trình chung sống là 06 năm, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do cả hai có lối sống và suy nghĩ hoàn toàn trái ngược nhau, bất đồng với nhau về mọi thứ, chị T gây nợ bên ngoài dẫn đến vợ chồng không còn lòng tin ở nhau. Anh cũng đã nhiều lần khuyên răn nhưng không có kết quả. Hiện anh không còn tình cảm với chị T nữa nên anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Thị T.

Về con chung: Anh và chị T có ba con chung là cháu Quách Minh T, sinh ngày 24/10/2012; cháu Quách Xuân T, sinh ngày 27/3/2014 và cháu Quách Anh T, sinh ngày 27/3/2014. Ly hôn, anh có nguyện vọng được nuôi các con chung và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Anh và chị T không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết

Về nợ chung: Anh và chị T không có nợ chung.

Đối với bị đơn chị Nguyễn Thị T có lời khai tại bản tự khai ngày 14 tháng 5 năm 2018 như sau:

Về hoàn cảnh và điều kiện kết hôn giống như những lời trình bày của anh Quách Công B. Tuy nhiên, trong cuộc sống vợ chồng không tránh khỏi những mâu thuẫn, xung đột với nhau. Nay, anh B yêu cầu được ly hôn thì chị đồng ý vì vợ chồng chung sống không có hạnh phúc.

Về con chung: Chị vả anh B có ba con chung là cháu Quách Minh T, sinh ngày 24/10/2012; cháu Quách Xuân T, sinh ngày 27/3/2014 và cháu Quách Anh T, sinh ngày 27/3/2014. Ly hôn, chị đồng ý giao cả 03 con cho anh B chăm sóc trực tiếp vì chị không có khả năng về kinh tế nên không thể nuôi con.

Về tài sản chung: Chị và anh B không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết

Về nợ chung: Chị và anh B không có nợ chung.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục để triệu tập hợp lệ đối với chị Nguyễn Thị T. Tuy nhiên, chị Nguyễn Thị T không đến Toà án tham gia tố tụng và không có lời khai tại phiên tòa;

Tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án gồm có: Đơn khởi kiện; Giấy chứng nhận kết hôn số 93 ngày 10/9/2013; Giấy chứng minh nhân dân; Giấy khai sinh của con Quách Minh T, Quách Anh T và Quách Xuân T; Bản tự khai của các đương sự; Biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 02/7/2018;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quyền khởi kiện và thẩm quyền giải quyết: Anh Quách Công B có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu ly hôn và giải quyết nuôi con với chị Nguyễn Thị T theo quy định của pháp luật. Đơn khởi kiện của anh Nguyễn Công B được làm theo quy định tại Điều 189 của Bộ luật tố tụng dân sự nên được Tòa án thụ lý, xem xét; anh Quách Công B và chị Nguyễn Thị T đều cư trú tại thành phố P, nên Tòa án nhân dân thành phố P có thẩm quyền giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]  Về việc bị đơn vắng mặt: Quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa, chị Nguyễn Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn.

[3] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Về hôn nhân: Anh Quách Công B và chị Nguyễn Thị T chung sống và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Hoa Lư, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai năm 2012 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu ly hôn của anh Quách Công B thì thấy, yêu cầu ly hôn của anh Bảo được chị T đồng ý. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt đầy đủ các thủ tục văn bản để anh B và chị T đến Tòa án tham gia hòa giải đoàn tụ nhưng chị T đều vắng mặt chứng tỏ chị T không quan tâm đến việc có cần tiếp tục duy trì cuộc hôn nhân của vợ chồng hay không. Như vậy, đã có đủ cơ sở để nhận định rằng, tình trạng hôn nhân giữa anh Quách Công B và chị Nguyễn Thị T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, quan hệ vợ chồng đã thực sự không thể hàn gắn được nữa, mục đích của hôn nhân là xây dựng một gia đình hoà thuận, hạnh phúc không đạt được nên anh B yêu cầu được ly hôn với chị Nguyễn Thị T là có căn cứ, được chấp nhận.

Về con chung: Anh Quách Công B và chị Nguyễn Thị T ba con chung là cháu Quách Minh T, sinh ngày 24/10/2012; cháu Quách Xuân T, sinh ngày 27/3/2014 và cháu Quách Anh T, sinh ngày 27/3/2014. Ly hôn, anh có nguyện vọng được nuôi các con chung và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Yêu cầu nuôi con của anh Quách Công B trong quá trình giải quyết được chị T chấp nhận. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh Quách Công B, giao cho anh Quách Công B trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục ba con chung là cháu Quách Minh T, Quách Xuân T và Quách Anh T cho đến khi các con thành niên hoặc đã thành niên mà mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Quách Công B không yêu cầu chị Nguyễn Thị T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh Quách Công B và chị Nguyễn Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[4] Về án phí: Anh Quách Công B phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: Khoản 1 Điều 28; Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Áp dụng: Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

- Căn cứ Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14;

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Quách Công B.

- Về hôn nhân: Anh Quách Công B được ly hôn chị Nguyễn Thị T.

- Về con chung: Giao cho anh Quách Công B trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục ba con chung là cháu Quách Minh T, sinh ngày 24/10/2012; cháu  Quách  Xuân  T,  sinh  ngày 27/3/2014  và  cháu  Quách  Anh  T,  sinh  ngày 27/3/2014 cho đến khi con thành niên hoặc đã thành niên mà mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Anh Quách Công B không yêu cầu Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con chung.

Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc quyết định thay đổi mức cấp dưỡng.

- Về nợ chung và nghĩa vụ chung: Anh Quách Công Bvà chị Nguyễn Thị T không có nợ chung và nghĩa vụ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí: Anh Quách Công B phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0003369 ngày 28/3/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P, tỉnh Gia Lai; anh Quách Công B đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

385
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2017/HNGĐ-ST ngày 08/08/2018 về yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:49/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về