Bản án 92/2021/HNGĐ-ST ngày 22/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 92/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 22 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 88/2021/HNGĐ – TLST ngày 23/4/2021, về việc “ Ly hôn, tranh chấp nuôi con”.Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 21/5/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 77/2021/QĐ-STngày 07/6/2021giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh ngày 13/7/1992.

Địa chỉ : KDC N, phường H, thành phố L, tỉnh Hải Dương (vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Phạm Ngọc C, sinh ngày 15/8/1986.

Nơi cư trú trước khi xuất cảnh : KDC N, phường H, thành phố L, tỉnh Hải Dương.

Hiện đang lao động tại Đài Loan (vắng mặt).

3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan : Bà Phạm Thị B, sinh năm 1951.

Địa chỉ : Khu phố B, KDC N, phường H, thành phố L, tỉnh Hải Dương (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai - Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày: Chị và anh C được tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, thành phố L, tỉnh Hải Dương ngày 27 tháng 12 năm 2010. Sau ngày cưới vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc được 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do thiếu tin tưởng nhau dẫn đến vợ chồng bất đồng quan điểm, đầu năm 2013 chị về bố mẹ đẻ sinh sống, cuối năm 2013 chị sang Đài Loan lao động, vợ chồng ít liên lạc với nhau. Năm 2016 anh C cũng sang Đài Loan lao động, tuy nhiên vợ chồng không sống cùng nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh C.

Về con chung : Vợ chồng chị có một con chung là Phạm Thị Thúy N, sinh ngày 12/7/2011, từ nhỏ cháu sống cùng bà nội là bà Phạm Thị B. Ly hôn chị và anh C thỏa thuận anh C nuôi con và chị không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.Trong thời gian anh C ở nước ngoài, chị đồng ý để cháu N ở với bà nội.

Về tài sản chung, nợ chung : Không có, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án chị H không cung cấp được địa chỉ của anh C ở Đài Loan. Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của bà Phạm Thị B là mẹ đẻ anh C. Bà B xác định anh C đi Đài Loan lao động vào khoảng năm 2017, từ khi đi đến nay anh C có về Việt Nam 1 lần. Việc chị H có đơn xin ly hôn bà và anh C đều đã biết. Bà xác định vợ chồng anh C sống không hạnh phúc, hai bên đã sống ly thân khoảng 10 năm nay. Bà không biết địa chỉ của anh C ở nước ngoài nên không thể cung cấp cho Tòa án. Tuy nhiên anh C vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình nên bà đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh C biết. Sau khi nhận các văn bản tố tụng của Tòa án, bà B xác định đã thông tin cho anh C biết. Anh C có quan điểm đồng ý ly hôn và xin được nuôi con, trong thời gian không ở Việt Nam anh C ủy quyền cho bà chăm sóc cháu N, bà B có quan điểm đồng ý.Về tài sản chung, nợ chung anh C không đề nghị Tòa án giải quyết, đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

Cháu Phạm Thị Thúy N là con chung của chị H, anh C có quan điểm từ nhỏ cháu đã ở với bà nội, nếu bố mẹ cháu ly hôn, cháu có nguyện vọng được ở với bố và bà nội.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn cơ bản đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn của chị H, anh C đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị H được ly hôn anh C; về con chung: Giao cháu Phạm Thị Thúy N, sinh ngày 12/7/2011 cho anh C chăm sóc, nuôi dưỡng. Trong thời gian anh C không có mặt tại Việt Nam, tạm giao cháu N cho bà Phạm Thị B, chăm sóc, nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, chị H không cung cấp được địa chỉ của anh C ở Đài Loan.Theo hướng dẫn tại Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã hai lần yêu cầu gia đình anh C cung cấp địa chỉ, nhưng gia đình không cung cấp được. Đồng thời Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản theo quy định. Qua xác minh tại gia đình anh C thì được biết, anh C vẫn thường xuyên liên lạc với mẹ đẻ là bà Phạm Thị B, thông qua bà B anh C có quan điểm đồng ý ly hôn với chị H. Do vậy Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục cố tình giấu địa chỉ. Anh C đồng ý để bà B chăm sóc nuôi dưỡng cháu N trong thời gian anh không ở Việt Nam nên Tòa án xác định bà Phạm Thị B là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

Trong quá trình giải quyết vụ án chị H, bà B có quan điểm xin được xét xử vắng mặt. Do vậy căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Ngọc C kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại tại Ủy ban nhân dân phường H, thành phố L, tỉnh Hải Dương ngày 27 tháng 12 năm 2010, do vậy hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Sau ngày cưới vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc được 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng thiếu sự tin tưởng, không tìm thấy tiếng nói chung. Cuối năm 2013 chị H đi Đài Loan lao động, sau đó anh C cũng sang Đài Loan lao động nhưng hai bên không chung sống cùng nhau. Vợ chồng sống ly thân khoảng 10 năm, hai bên không còn quan tâm đến nhau. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn và đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn. Thông qua gia đình, anh C cũng có quan điểm đồng ý ly hôn với chị H. Xét thấy thực tế giữa chị H, anh C đã có thời gian dài xảy ra mâu thuẫn, hai bên sống ly thân đã 10 năm nên có thể nói mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do vậy có căn cứ chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H.

- Về con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Ngọc C có 01 con chung là Phạm Thị Thúy N, sinh ngày 12/7/2011, từ nhỏ cháu N ở với bà nội là bà Phạm Thị B ( mẹ đẻ anh của C). Ly hôn chị H, anh C đều thỏa thuận giao cháu N cho anh C nuôi dưỡng, trong thời gian anh C không ở Việt Nam, anh C và chị H đồng ý để cháu N ở với bà Phạm Thị B . Bà B cũng có quan điểm đồng ý chăm sóc cháu N. Do vậy, để đảm bảo sự ổn định của cháu N cũng như nguyện vọng của các đương sự, cần giao cháu N cho anh C nuôi dưỡng. Trong thời gian anh C không ở Việt Nam, tạm giao N cho bà Phạm Thị B chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp. Về cấp dưỡng nuôi con, các bên tự thỏa thuận nên không đặt ra xem xét.

- Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

[3].Về án phí: Chị H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, khoản 2 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban tH vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Phạm Ngọc C.

2.Về con chung: Giao con chung Phạm Thị Thúy N, sinh ngày 12/7/2011 cho anh Phạm Ngọc C nuôi dưỡng cho đến khi con chung tròn 18 tuổi. Trong thời gian anh C không có mặt tại Việt Nam tạm giao cháu N cho bà Phạm Thị B chăm sóc, nuôi dưỡng.

Chị H được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) chị đã nộp, theo biên lai thu số AA/2018/0005952 ngày 19 tháng 4 năm 2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. Chị H đã nộp đủ án phí ly hôn.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị H, bà Phạm Thị B được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Anh Phạm Ngọc C được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 92/2021/HNGĐ-ST ngày 22/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:92/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về