Bản án 92/2018/HS-ST ngày 31/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 92/2018/HS-ST NGÀY 31/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 5 năm 2018 tại Tòa án nhân dân thành phố H, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 70/2018/TLST-HS ngày 11 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 89/2018/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn N; sinh ngày 21 tháng 7 năm 1979 tại tỉnh Quảng Ninh; Nơi cư trú: tổ 1, khu 4, phường Đ, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn Q và bà: Lê Thị H; Có vợ Nguyễn Thị Nh và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 21/02/2018. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20giờ 30 phút ngày 21/02/2018 Nguyễn Văn N điều khiển xe ô tô BKS 29V-5619 mượn của anh Bùi Tiến D đến khu vực Km 114+700, Quốc lộ 18 thuộc phường B, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh thì bị Công an kiểm tra hành chính và đo nồng độ cồn, N tự nguyện giao nộp 01 túi Methamphetamine khối lượng 0,352gam tàng trữ trong người với mục đích để sử dụng. Nguồn gốc số ma túy: N mua của 01 người đàn ông không quen biết tại km11, phường Minh T, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh 01 gói ma túy tổng hợp dạng đá với giá 300.000đ.

Vật chứng thu giữ 01 (Một) túi nilon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng.

Chiếc xe ô tô BKS 29V-5619 N mượn, anh D không biết việc N phạm tội cơ quan điều tra đã trả lại, anh D cam đoan không khiếu kiện.

Kết luận giám định số 219/GĐMT ngày 23/02/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Mẫu vật gửi giám định là ma túy; Loại: Methamphetamine; Khối lượng: 0,352gam Cáo trạng số 75/CT-VKSHL ngày 06/4/2018 Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo Nguyễn Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung vụ án đã nêu, việc bị truy tố và đưa ra xét xử là đúng người đúng tội không oan, đã được thực hiện các quyền, nghĩa vụ, giải thích việc công bố bản án theo quy định của pháp luật và xin được xem xét đến hoàn cảnh gia đình để được hưởng mức án thấp nhất.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Xử phạt Nguyễn Văn N từ 18 đến 24 tháng tù, thời hạn tính từ ngày bắt. Về vật chứng tịch thu, tiêu hủy lượng ma túy hoàn lại sau giám định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bảo đảm các quyền, nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng; không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo về việc tàng trữ và tự nguyện giao nộp giao nộp ma túy phù hợp với lời khai của anh Bùi Tiến D về việc cho Nguyễn Văn N mượn xe ôtô BKS 29V-5619; phù hợp lời khai của người làm chứng Hoàng Thế A và Lê Văn M về việc chứng kiến cơ quan Công an kiểm tra, thu giữ vật chứng; phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 20 giờ 45 phút ngày 21/02/2018 và kết luận giám định số 219/GĐMT ngày 23/02/2018.

Như vậy, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20giờ 30 phút ngày 21/02/2018 tại khu vực Km 114+700, Quốc lộ 18 thuộc phường B, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Văn N có hành vi tàng trữ trái phép 01 túi Methamphetamine khối lượng 0,352gam mục đích để sử dụng thì bị Công an kiểm tra, thu giữ. Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn N đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 đến 05 năm:

c. Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

[3] Tính chất mức độ, hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vi phạm pháp luật, xâm phạm tới sự độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước gây mất trật tự trị an địa phương, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã từng sử dụng và nhận thức được tác hại của ma túy nhưng vẫn tàng trữ trái phép để sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu bất chính của cá nhân, thể hiện sự coi thường pháp luật cần xử lý nghiêm, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hướng xử lý: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; mẹ bị cáo - bà Lê Thị H là người có công với nước được thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba đây là tình tiết xem xét giảm nhẹ theo điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đề nghị áp dụng điều luật và mức hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật. Cần xử lý nghiêm, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Về vật chứng: Lượng ma túy hoàn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

Chiếc xe ô tô BKS 29V-5619 cơ quan điều tra đã trả lại chủ sở hữu nên không xem xét.

[6] Về hình phạt bổ sung: bị cáo không nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Nguyễn Văn N phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Nguyễn Văn N 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/02/2018.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự: tịch thu tiêu hủy 0,29 gam mẫu vật hoàn lại sau giám định (Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng số 112/BB - THA ngày 18/4/2018 tại Cơ quan thi hành án dân sự thành phố H) Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 92/2018/HS-ST ngày 31/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:92/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về