TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH CHƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 92/2018/HNGĐ-ST NGÀY 22/05/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 22 tháng 5 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 73/2018/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2018 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 07/5/2018 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Tiến B, sinh năm: 1954; địa chỉ: Thôn X, xã TV, huyện TC, tỉnh NA. Có mặt.
Bị đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn X, xã TĐ, huyện TC, tỉnh NA.
Vắng mặt.(Chị T là người bị bệnh tâm thần) Người đại diện hợp pháp của chị Nguyễn Thị Thơm: Ông Nguyễn Bá Th, sinh năm 1955; địa chỉ: Thôn X, xã TĐ, huyện TC, tỉnh NA. Có mặt (Ông Th là bố đẻ của chị T)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 10/4/2018, bản tự khai và lời trình bày tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Tiến B trình bày như sau: Ông và chị Nguyễn Thị T kết hôn với nhau vào ngày 03/6/2016 do hai bên tìm hiểu tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TĐ, huyện TC, tỉnh NA. Sau khi kết hôn vợ chồng sống không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình hai bên không hợp nhau, chị T bị bệnh tâm thần. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên vợ chồng đã sống ly thân từ đầu năm 2017 cho đến nay. Tình cảm vợ chồng là không còn nữa ông đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với chị Nguyễn Thị T.
Về nuôi con chung: Vợ chồng có một con chung là Nguyễn Hữu Mạnh Th, sinh ngày 24/3/2017. Vợ chồng ly hôn ông có nguyện vọng giao con cho chị Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Bá Th nuôi dưỡng, ông cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đồng cho đến khi con trưởng thành.
Về chia tài sản và nợ: Ông Nguyễn Tiến B không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ý kiến người đại diện hợp pháp của bị đơn: Chị Nguyễn Thị T kết hôn với ông Nguyễn Tiến B vào ngày 03/6/2016 do hai bên tìm hiểu tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TĐ, huyện TC, tỉnh NA. Sau khi kết hôn vợ chồng sống không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn nên chị T đã về tại nhà bố đẻ là ông Nguyễn Bá Th tại Thôn X, xã TĐ, huyện TC, tỉnh NA sinh sống. Hiện nay chị T là người đang bị bệnh tâm thần, ông B không còn tình cảm, không thương yêu, chăm sóc chị T và có đơn xin ly hôn với chị Nguyễn Thị T. Ông Th có ý kiến đề nghị Tòa án giải quyết cho ông B được ly hôn với chị Nguyễn Thị T.
Về nuôi con chung:Vợ chồng có một con chung là Nguyễn Hữu Mạnh Th, sinh ngày 24/3/2017, hiện đang ở với ông và chị Nguyễn Thị T tại Thôn X, xã TĐ, huyện TC, tỉnh NA. Ông Th có nguyện vọng được nuôi cháu và yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi, trưởng thành.
Về chia tài sản và nợ: Ông Nguyễn Bá Th không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong qúa trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Nguyên đơn và người đại diện hợp pháp của bị đơn đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điều 28, Điều 35, khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81,82,83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Về hôn nhân: Xử cho ông Nguyễn Tiến B được ly hôn chị Nguyễn Thị T.
Về nuôi con chung: Hiện tại cháu Nguyễn Hữu Mạnh Th đang ở với chị Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Bá Th, do đó ghi nhận sự thỏa thuận giữa ông Nguyễn Tiến B và ông Nguyễn Bá Th, giao con chung là Nguyễn Hữu Mạnh Th, sinh ngày 24/3/2017 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ông Nguyễn Tiến B có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi, trưởng thành.
Về chia tài sản và nợ: Ông Nguyễn Tiến B và ông Nguyễn Bá Th không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.
Về án phí: Ông Nguyễn Tiến B phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Đây là vụ án thuộc trường hợp tòa án không lý giải được vì có đương sự là vợ trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự (bị đơn bị bệnh tâm thần) được quy định tại khoản 3, Điều 207 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2]Về nội dung vụ án: Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa ông Nguyễn Tiến B và chị Nguyễn Thị T là hợp pháp, được xác lập trên cở sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TĐ, huyện TC, tỉnh NA vào ngày 03/6/2016. Sau khi kết hôn vợ chồng sống không hạnh phúc, thường xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp sau khi kết hôn chị T mắc bệnh tâm thần không làm chủ được hành vi, ông B không thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ chị T. Mâu thuẫn trầm trọng nhất là vào đầu năm 2017 nên chị T phải về nhà bố đẻ là ông Nguyễn Bá Th sinh sống. Hội đồng xét xử xét thấy về quan hệ hôn nhân giữa ông Nguyễn Tiến B và chị Nguyễn Thị T chỉ tồn tại về mặt hình thức, thực chất tình trạng hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được do đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Tiến B, xử cho ông được ly hôn với chị Nguyễn Thị T là phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[3]Về nuôi con chung: Vợ chồng có một con chung là Nguyễn Hữu Mạnh Th, sinh ngày 24/3/2017.Tại phiên tòa ông Nguyễn Tiến B và ông Nguyễn Bá Th thỏa thuận giao con chung của vợ chồng cho ông Nguyễn Bá Th và chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, ông Nguyễn Tiến B có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi, trưởng thành.
Xét thấy thỏa thuận giữa ông Nguyễn Tiến B và ông Nguyễn Bá Th về việc giao con cho chị Nguyễn Thị T là người đang bị bệnh tâm thần chăm sóc, nuôi dưỡng là không đảm bảo được quyền lợi mọi mặt của con do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận. Hội đồng xét xử giao con chung của vợ chồng cho ông Nguyễn Tiến B trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là đảm bảo được quyền lợi mọi mặt của con,đúng với quy định tại các Điều 81;82;83 Luật hôn nhân gia đình.Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho chị Nguyễn Thị T.
[4]Về chia tài sản và nợ: Ông Nguyễn Tiến B và người đại diện pháp của chị Nguyễn Thị T không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
[5] Về án phí: Ông Nguyễn Tiến B phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Về ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Xét thấy ý kiến phát biểu tại phiên tòa của đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng là có căn cứ, đúng pháp luật.
Về nội dung vụ án: Đại diện viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử xử cho ông Nguyễn Tiến B được ly hôn với chị Nguyễn Thị T là có căn cứ, đúng với quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
Về nuôi con chung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị ghi nhận sự thỏa thuận của giữa ông Nguyễn Tiến Bình và ông Nguyễn Bá T, giao con chung là Nguyễn Hữu Mạnh Th, sinh ngày 24/3/2017 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là không đảm bảo được quyền lợi mọi mặt của con, lý do chị Nguyễn Thị T hiện tại là người đang bị bệnh tâm thần nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; xử:
Về hôn nhân: Xử cho ông Nguyễn Tiến B được ly hôn chị Nguyễn Thị T.
Về nuôi con chung:Giao con chung là Nguyễn Hữu Mạnh Th, sinh ngày 24/3/2017 cho ông Nguyễn Tiến B trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho chị Nguyễn Thị T.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Về án phí: Ông Nguyễn Tiến B phải nộp 300.000 (Ba trăm ngàn) hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng đã nộp theo biên lai số 0001266 ngày 12/4/2018 của chi cục thi hành án huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
Nguyên đơn,người đại diện hợp pháp của bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 92/2018/HNGĐ-ST ngày 22/05/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 92/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Chương - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 22/05/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về