Bản án 90/2020/HS-ST ngày 29/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 90/2020/HS-ST NGÀY 29/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 90/2020/TLST-HS ngày 14/7/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 90/2020/QĐXXST-HS ngày 16/7/2020 đối với:

Bị cáo: Lò Văn Đ, sinh ngày: 24/8/1992 tại huyện M, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản C, xã K, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 6/12; dân tộc: Thái; giơi tinh: Nam; tôn giáo: Không; quôc tịch: Viêt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Lò Văn P và bà Hà Thị L; bị cáo chưa có vợ con; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 02/6/2017 bị TAND huyện Mộc Châu ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính thời hạn 24 tháng; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/5/2020 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 50 phút ngày 08/5/2020, tổ công tác Đồn biên phòng cửa khẩu Lóng Sập làm nhiệm vụ tại khu vực bản C, xã K, huyện M, tỉnh Sơn La tiến hành kiểm tra đối với Lò Văn Đ đang đi bộ trên đường dân sinh theo hướng từ biên giới đến. Quá trình kiểm tra phát hiện trong túi áo bên trái đang mặc trên người của Đ có 01 túi nilon màu xanh bên trong chứa 04 viên nén màu hồng trên bề mặt mỗi viên đền có ký hiệu WY nghi là Methamphetamine. Lò Văn Đ khai nhận đó là ma tuý (Hồng phiến) của Đ cất giấu để sử dụng cho bản thân. Căn cứ hành vi vi phạm của Lò Văn Đ, tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng và dẫn giải Lò Văn Đ về Đồn biên phòng cửa khẩu Lóng Sập để điều tra, xử lý.

Ngày 09/5/2020 Đồn biên phòng cửa khẩu Lóng Sập đã Quyết định khởi tố vụ án hình sự Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 249 BLHS. Cùng ngày Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu đã Quyết định chuyển vụ án hình sự đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu để điều tra theo thẩm quyền.

Ngày 09/5/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã tiến hành xác định khối lượng 04 viên nén màu hồng nghi là Methamphetamine thu giữ của Lò Văn Đ có khối lượng 0,39 gam. Lấy 01 viên có khối lượng 0,1 gam làm mẫu trưng cầu giám định chất ma tuý, mẫu có ký hiệu Đ.

Tại Kết luận giám định số 740 ngày 12/5/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu Đ là ma tuý; Loại Methamphetamine; Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,1 gam; Tổng khối lượng ma tuý thu giữ là 0,39 gam; Loại Methamphetamine”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lò Văn Đ khai nhận: Bản thân nghiện chất ma tuý. Khoảng 04 giờ ngày 07/5/2020, Đ đi bộ một mình từ lán nương ở bản C, xã K đến khu vực biên giới Việt Nam - Lào thuộc bản T, xã K, huyện M mục đích tìm mua ma tuý để sử dụng cho bản thân. Khi đến nơi Đ gặp một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết khoảng 30 tuổi đang đi bộ một mình, Đ đã hỏi và mua được của người đó 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng 05 viên Methamphetamine với giá 50.000 đồng. Sau khi mua được ma túy Đ mang về lán nương lấy 01 viên hồng phiến ra sử dụng, còn lại 04 viên hồng phiến Đ gói lại bằng túi nilon màu xanh ban đầu. Đến khoảng 15 giờ 40 phút ngày 08/5/2020 Đ cất giấu gói hồng phiến và túi áo bên trái đang mặc rồi đi bộ về nhà. Khi Đ đang đi bộ trên đường dân sinh thuộc bản C, xã K thì bị tổ công tác Đồn biên phòng cửa khẩu Lóng Sập kiểm tra phát hiện, bắt quả tang.

Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn Đ trình bày ý kiến, giữ nguyên lời khai của mình, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung nào làm thay đổi nội dung vụ án. Bị cáo nhận tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Đối với người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết khoảng 30 tuổi đã bán ma tuý cho Lò Văn Đ như Đ khai nhận, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu không có căn cứ để điều tra, làm rõ và xử lý.

Cáo trạng số 91/CT-VKS ngày 13/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố bị can Lò Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lò Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và áp dụng các căn cứ pháp luật như sau:

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Lò Văn Đ từ 18 đến 24 tháng tù.

Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 08/5/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Lò Văn Đ, bắt ngày 08/5/2020: Bên trong đựng 03 viên = 0,29 gam, nilon màu xanh và vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Lò Văn Đ, kq: Dương tính.

3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Sau khi Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm xử lý các vấn đề của vụ án. Bị cáo nhất trí với cáo trạng và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn Đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan Điêu tra, số ma túy bị tổ công tác Công an huyện Mộc Châu thu giữ của bị cáo vào ngày 08/5/2020 có nguồn gốc mua được của một người người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết khoảng 30 tuổi với giá 50.000 đồng, mục đích sử dụng cho bản thân. Lời khai của bị cáo không có nội dung gì thay đổi so với lời khai tại cơ quan Cảnh sát điều tra, bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với hành vi đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do tổ công tác Đồn biên phòng cửa khẩu Lóng Sập lập vào hồi 15 giờ 50 phút ngày 08/5/2020; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; biên bản mở niêm phong xác định số lượng, khối lượng, lấy mẫu giám định, niêm phong lại vật chứng đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; bản kết luận giám định số 740 ngày 12/5/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận “Mẫu gửi giám định ký hiệu Đ là ma tuý; Loại Methamphetamine; Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,1 gam; Tổng khối lượng ma tuý thu giữ là 0,39 gam; Loại Methamphetamine” nằm trong danh mục II, số thứ tự 323 Nghị định 73/2018/NĐ- CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng trong quá trình điều tra và các tài liệu, chứng cứ của cơ quan Điều tra đã thu thập được trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Lò Văn Đ là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của việc tàng trữ, sử dụng ma túy. Nhưng do nghiện chất ma túy nên ngày 08/5/2020 bị cáo Lò Văn Đ đã có hành vi tàng trữ, cất giấu trái phép 0,39 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo Lò Văn Đ không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là trong quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo có thái độ thành khẩn khái báo, ăn năn hối cải, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần xem xét áp dụng đối với bị cáo.

Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo là người có nhân thân xấu, có một tiền sự ngày 02/6/2017 bị TAND huyện Mộc Châu ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính thời hạn 24 tháng. Từ những đánh giá nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) đến 500.000.000 đồng (Năm trăm triệu đồng). Hội đồng xét xử xét thấy quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, sống chung với gia đình, không có tài sản riêng có giá trị, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[4] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Đối với 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Lò Văn Đ, bắt ngày 08/5/2020: Bên trong đựng 03 viên = 0,29 gam, nilon màu xanh và vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Lò Văn Đ, kq: Dương tính. Xét thấy đây là những vật thuộc loại Nhà nước cấm mua bán, lưu hành, tàng trữ, vật không có giá trị sử dụng. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Về các vấn đề khác:

Đối với người người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết khoảng 30 tuổi đã bán ma túy cho cho Lò Văn Đ tại khu vực biên giới Việt Nam - Lào thuộc bản Trọng, xã Chiềng Khừa, huyện Mộc Châu. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ. Do đó, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu không có căn cứ để điều tra, làm rõ và xử lý.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) phù hợp với khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Lò Văn Đ để đảm bảo cho việc thi hành án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Lò Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lò Văn Đ 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 08/5/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Lò Văn Đ, bắt ngày 08/5/2020: Bên trong đựng 03 viên = 0,29 gam, nilon màu xanh và vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Lò Văn Đ, kq: Dương tính.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Lò Văn Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn).

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 90/2020/HS-ST ngày 29/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:90/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về