Bản án 90/2020/HS-ST ngày 22/05/2020 về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN B, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 90/2020/HS-ST NGÀY 22/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 5 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân, quận B, thành phố Hà Nội, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 86/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn M, sinh năm: 1962; Giới tính: Nam.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 27 ngõ 495 đường X, tổ dân phố C, phường X, quận B, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/10; Họ và tên bố: Nguyễn Văn V, sinh năm 1932 (đã mất); Họ và tên mẹ: Dương Thị H, sinh năm 1938 (Già yếu); Họ và tên vợ: Kiều Thị N, sinh năm 1966 (Hiện đang chấp hành án); Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 1985, con thứ hai sinh năm 1993 (đã mất), con nhỏ sinh năm 1998; Gia đình có 5 anh chị em, bị cáo là con thứ 3.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Nhân thân: Tại Bản án 484/HSPT ngày 06/10/1995, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Cướp tài sản (đã xóa án tích).

Danh bản và chỉ bản số: 19 do Công an quận B lập ngày 20/11/2019.

Bị caó bị bắt khẩn cấp ngày 12/11/2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 – công an thành phố Hà Nội;

Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên Nguyễn Thế H, snh năm: 1992; Giới tính: Nam.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 3 ngõ 140 T, phường T, quận C, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Công an nhân dân; Văn hóa: 12/12; Họ tên cha: Nguyễn Văn H; Sinh năm: 1953; Họ tên mẹ: Lê Thị Thu H; Sinh năm: 1960; Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai.

Tiền án, tiền sự: Không;

Danh bản và chỉ bản số: 18 do Công an quận B lập ngày 20/11/2019.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 11/11/2019, bị tạm giữ từ ngày 12/11/2019 đến ngày 20/11/2019, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Có mặt tại phiên tòa.

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 11/11/2019, Nguyễn Thế H dùng điện thoại số 09799658** gọi đến số 037690019** của Nguyễn M hỏi mua 01 gói ma túy với giá 500.000 đồng, Nguyễn M đồng ý. Sau đó Nguyễn Thế H đi xe máy Piagio BKS: 29H1 – 165.** từ nhà đến nhà số 27 ngõ 495 đường X, phường X, quận B, thành phố Hà Nội gặp Nguyễn M để mua ma túy. Khi đến nhà của Nguyễn M, Nguyễn Thế H đi lên tầng 3. Tại đây, Nguyễn M đưa cho Nguyễn Thế H 01 (một) gói nilon màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng. Nguyễn Thế H cầm cất vào ví rồi cho vào túi quần bên phải phía trước và đưa cho Nguyễn M 500.000 đồng. Sau đó, Nguyễn Thế H đi xe máy về nhà khi đến trước cửa số nhà 459 đường X thì bị bắt quả tang cùng vật chứng.

Vật chứng thu giữ:

+ Thu giữ của Nguyễn Thế H: 01 (một) gói nilong màu trắng kích thước khoảng (2x2) cm bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 (một) điện thoại di động Iphone màu đen lắp sim số 097.44657**; 01 (một) ví da màu đỏ đen bên trong có:

1.165.000 đồng, 01 (một) thẻ ATM ngân hàng VPBank, 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Thế H, 01 (một) chứng minh thư công an nhân dân mang tên Nguyễn Thế H; 01 (một) xe máy nhãn hiệu LX Piaggo BKS: 29H1 – 165.**, SM:

4030082, SK: 028959;

+ Thu giữ của Nguyễn M: 01 (một) gói nilon màu xanh kích thước (5x10) cm bên trong chứa chất bột màu hồng bị ngấm nước thu giữ trong bồn cầu nhà vệ sinh trong phòng ngủ tầng 3; 02 (hai) gói nilong kích thước (2x2) cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng thu giữ dưới đệm trong phòng ngủ tầng 3; 01 (một) gói nilon màu xanh kích thước (5x10) cm bên trong có 01 (một) gói nilon màu trắng chứa 08 (tám) viên nén màu xanh và 01 (một) gói nilon màu trắng chứa thảo mộc khô thu giữ tại hốc trong nhà vệ sinh phòng ngủ tầng 3; 01 (một) túi màu xanh hình chữ nhật kích thước (5x10) cm bên trong có 04 (bốn) gói nilon màu trắng chứa tinh thể màu trắng, 01 (một) gói nilon màu trắng chứa 04 (bốn) viên nén màu xanh bề mặt dập logo WY và 01 (một) gói nilon màu trắng chứa 01 (một) viên nén màu hồng thu được trong nhà vệ sinh trong phòng ngủ tầng 3; 01 (một) gói nilon màu trắng kích thước (3x5) cm bên trong có 10 (mười) viên nén màu hồng trên bề mặt mỗi viên có logo WY thu giữ trong túi áo khoác treo trên tường trong phòng ngủ tầng 2; 01 (một) cân điện tử màu đen; 50 (năm mươi) túi nilong màu trắng kích thước (3x6) cm chưa sử dụng; 50 (năm mươi) túi nilong màu trắng kích thước (1x1) cm chưa sử dụng; 01 (một) điện thoại di động Samsung S9+ màu đen, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

Ngày 12/11/2019, cơ quan Cảnh sát điều tra - công an thành phố Hà Nội ra Quyết định trưng cầu giám định số 868 trưng cầu phòng Kỹ thuật hình sự - công an thành phố Hà Nội giám định số ma túy trên.

Tại kết luận giám định số 7291 ngày 21/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội xác định:

Số ma túy thu giữ của Nguyễn Thế H: “Tinh thể màu trắng bên trong 01 (một) túi nilon có khối lượng 0,488 gam là ma túy loại Methamphetamine.” Số ma túy thu giữ của bị cáo Nguyễn M:

+ “Chất bột màu trắng bên trong 01(một) gói nilon màu xanh có khối lượng 10,963 gam là ma túy Methamphetamine;

+ Tinh thể màu trắng trong 02 (hai) gói nilon có tổng khối lượng là 0,237 gam là ma túy Methamphetamine;

+ 08 (tám) viên nén màu xanh trên một mặt mỗi viên có logo “-“ đều có ma túy loại Methamphetamine, ma túy loại MDMA, ma túy loại Ketamine, ma túy loại Delta – 9 – Tetrahydrocanabinol và ma túy loại FUB – AMB, tổng khối lượng: 3,290 gam;

+ Thảo mộc khô bên trong 01 (một) gói nilon có khối lượng: 2,887 gam là cần sa; Tinh thể màu trắng bên trong 01 (một) gói nilong có khối lượng: 0,992 gam là ma túy loại Methamphetamine;

+ Tinh thể màu trắng bên trong 03 (ba) gói nilon có tổng khối lượng 4,149 gam đều là ma túy loại Ketamine;

+ 04 (bốn) viên nén màu xanh logo LV có tổng khối lượng 1,302 gam đều là ma túy loại MDMA;

+ 01 (một) viên nén màu hồng bên trong 01 gói nilon có khối lượng 0,098 gam là ma túy loại Methamphetamine;

+ 10 (mười) viên nén màu hồng có logo WY bên trong 01 (một) gói nilong có tổng khối lượng: 0,987 gam đều là ma túy loại Methamphetamine;

+ 01 (một) cân điện tử màu đen có dính ma túy loại Methamphetamine.

Tại Kết luận giám định số 106 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: “Hàm lượng các chất ma túy Methamphetamine, MDMA, Ketamine, Delta – 9 – Tetrahydrocanabinol trung bình trong mẫu gửi giám định lần lượt là 0,07%;

0,33%; 0,07% và 0,45%. Viện Khoa học hình sự không có sẵn mẫu chuẩn định lượng FUB-AMB nên không giám định hàm lượng FUB-AMB.” Như vậy, lượng ma túy trong 08 (tám) viên nén màu xanh, trên 1 mặt mỗi viên in logo “-“ gồm: 0,002303 gam ma túy loại Methamphetamine, 0,010857 gam ma túy loại MDMA, 0,002303 gam ma túy loại Ketamine, 0,014805 gam ma túy loại Delta – 9 - Tetrahydrocanabinol.

Về nguồn gốc số ma túy: Nguyễn M khai mua của một người phụ nữ tên “Lan” (không rõ lai lịch) với giá 2.500.000 đồng với mục đích để sử dụng và bán. Đây là lần đầu tiên Nguyễn M bán ma túy cho Nguyễn Thế H. Đối với đối tượng tên Lan đã bán ma túy cho Nguyễn M, qua quá trình điều tra không xác định được nhân thân lai lịch nên không có căn cứ để xử lý.

Về nguồn gốc chiếc xe máy LX Piaggo BKS: 29H1 – 165.**: Nguyễn Thế H khai mượn của bố đẻ là ông Nguyễn Văn H (Sinh năm: 1953; địa chỉ: Số 3 ngõ 140 T, phường T, quận C, thành phố Hà Nội). Tại cơ quan điều tra, ông Nguyễn Văn H khai: Khoảng năm 2015, ông H có mua chiếc xe máy trên ở đường Trần Khát Chân, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội để sử dụng, khi mua xe có giấy tờ mua bán và giấy tờ xe nhưng quá trình sử dụng giấy tờ mua bán bị thất lạc. Khi Nguyễn Thế H mượn xe ông H không biết H sử dụng để đi mua ma túy. Qua xác minh tại Phòng CSGT – công an thành phố Hà Nội, xác định người đứng tên đăng ký xe máy LX Piaggo BKS: 29H1 – 165.**, SM 4030082, SK: 028959 là chị Nguyễn Thị Minh T (địa chỉ: số 71 ngõ 33 đường N, phường T, quận H, TP.Hà Nội), tra cứu xe máy không có trong dữ liệu xe vật chứng. Hiện tại chị T đi đâu không rõ.

Cơ quan điều tra ra quyết định trao trả chiếc xe máy LX Piaggio BKS:

29H1 – 165.**; SM: 4030082; SK: 028959 cho ông Nguyễn Văn H.

Đối với 01 (một) ví da màu đen, số tiền 1.165.000 đồng (một triệu một trăm sáu mươi lăm nghìn đồng), 01 (một) thẻ ATM ngân hàng Vpbank, 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Thế H là tài sản của Nguyễn Thế H không liên quan đến hành vi phạm tội nên ngày 11/11/2019 nên cơ quan điều tra ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho Nguyễn Thế H. Nguyễn Thế H đã nhận tài sản không có yêu cầu gì.

Tại Cáo trạng số 100/CT-VKS, ngày 23/4/2020, Viện kiểm sát nhân dân quận B đã truy tố truy tố bị cáo Nguyễn Thế H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Truy tố bị cáo Nguyễn M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu và xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại điện Viện kiểm sát giữ nguyên luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo theo nội dung bản cáo trạng, sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; Điểm s Khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế H mức án từ 09 đến 12 tháng tù.

Áp dụng Điểm p Khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự; Điểm s Khoản1,2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn M mức án từ 10 năm đến 10 năm 06 tháng tù.

Do các bị cáo không có công việc ổn định nên đề nghị Toà án không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật: Tịch thu tiêu hủy 0,488 gam ma túy Methamphetamine thu giữ của bị cáo Nguyễn Thế H; Tịch thu tiêu hủy số ma túy: 14,161303 gam Methamphetamine; 1,312857 gam MDMA; 4,15133 gam Ketamine; 2,887 gam cần sa và 0,014805 gam Delta – 9 – Tetrahydrocanabinol thu giữ của bị cáo Nguyễn M. Tịch thu sung quỹ Nhà nước điện thoại thu giữ của Nguyễn Thế H.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an quận B, TP. Hà Nội; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân quận B, TP. Hà Nội: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo khai báo thành khẩn, rõ ràng, phù hợp với quy định của pháp luật; các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Những căn cứ xác định tội danh: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, vật chứng được thu giữ, kết luận giám định, biên bản phạm pháp quả tang, lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cùng các chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ ngày 11/11/2019, tại trước cửa số nhà 459 đường X, phường X, quận B, Hà Nội, tổ công tác phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – công an thành phố Hà Nội bắt quả tang Nguyễn Thế H đang tàng trữ trái phép 0,488 gam ma túy Methamphetamine với mục đích sử dụng.

Nguyễn M có hành vi bán trái phép 0,488 gam ma túy Methamphetamine cho Nguyễn Thế H.

Số ma tuý thu giữ tại số nhà 27 ngõ 495 đường X, phường X, quận B, Hà Nội của Nguyễn M số lượng ma túy gồm: 14,161303 gam Methamphetamine; 1,312857 gam MDMA; 4,15133 gam Ketamine; 2,887 gam cần sa và 0,014805 gam Delta – 9 – Tetrahydrocanabinol, với mục đích để sử dụng và bán ma tuý. Số ma túy thu giữ của bị cáo Nguyễn M gồm 15,47416 gam MDMA, Methamphetamine, 4,15133 gam Ketamine, 2,887 gam cần sa và 0,014805 gam Delta – 9 – Tetrahydrocanabinol. Vì vậy phải cộng các chất ma túy trên theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định 19 ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính khối lượng chất ma túy trong trường hợp các chất ma túy không được quy định trong cùng một điểm thuộc các khoản của Điều 251 Bộ luật hình sự để tính khối lượng của các chất ma túy như sau: Tỷ lệ phần trăm khối lượng của Methamphetamine, MDMA so với mức tối thiểu của Methamphetamine, MDMA quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự là 51,58% (15,47416 gam so với 30 gam). Tỷ lệ phần trăm khối lượng của Ketamine so với mức tối thiểu của Ketamine quy định tại điểm e khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự là 4,15133 % (4,15133 gam so với 100 gam). Tỷ lệ phần trăm khối lượng của cần sa so với mức tối thiểu của cần sa quy định tại điểm c khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự là 0,011548% (2,887 gam so với 25.000 gam). Tỷ lệ phần trăm khối lượng của Delta – 9 – Tetrahydrocanabinol so với mức tối thiểu quy định tại điểm e khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự là 0,014805% (0,014805 gam so với 100 gam). Như vậy, tổng % các chất ma túy trên là = 55,757683% (thuộc trường hợp dưới 100%) nên tổng khối lượng ma túy mà bị cáo Nguyễn M tàng trữ với mục đích để sử dụng và bán cho người khác thuộc trường hợp quy định tại Điểm p Khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Hành vi tàng trữ Methamphetamine có khối lượng 0,488 gam của Nguyễn Thế H đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Hành vi bán trái phép 0,488 gam ma túy Methamphetamine cho Nguyễn thế H của M và tàng trữ trái phép 05 loại ma túy khác nhau, có tổng phần trăm các chất ma túy là 55,757683% của Nguyễn M với mục đích để bán thuộc tình tiết định khung quy định tại Điểm p Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, bản cáo trạng số: 100/CT-VKSBTL ngày 23/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận B, TP. Hà Nội truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới chính sách quản lý, kiểm soát ma túy, chính sách phòng ngừa, ngăn chặn tệ nạn ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Ma tuý là hiểm hoạ đối với con người, không chỉ gây thiệt hại về kinh tế, ma tuý còn làm tha hoá đạo đức, huỷ hoại sức khoẻ, nòi giống của người sử dụng nó, là nguyên nhân của nhiều căn bệnh nguy hiểm và là nguyên nhân gây ra các loại tội phạm nguy hiểm khác.

Bị cáo Nguyễn Thế H là người hiểu rõ tác hại của ma tuý; bị cáo khai mua ma tuý về với mục đích đưa ma tuý cho mẹ dùng do mẹ để bị cáo bị ung thư; bị cáo thương mẹ và muốn mẹ mình sử dụng để giảm đau đớn. Tuy nhiên, lời khai của mẹ bị cáo thể hiện rõ là bà chưa bao giờ sử dụng ma tuý dù bị bệnh ung thư; bà không xúi giục hoặc nhờ bị cáo Thế H mua ma tuý. Vì vậy, không có cơ sở để chấp nhận lời khai của bị cáo Nguyễn Thế H về động cơ, mục đích tàng trữ ma tuý như bị cáo trình bày. Cần buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tàng trữ trái phép số ma tuý nêu trên.

Bị cáo Nguyễn M phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, động cơ, mục đích là để trục lợi. Bị cáo hiểu về tác hại mà ma tuý gây ra cho con người và cộng đồng, nhưng do bị cáo nghiện ma túy lâu năm nên bị cáo vẫn mua sử dụng và bán để thu lợi và có tiền để tiếp tục mua ma tuý về sử dụng thoả mãn cơn nghiện hàng ngày. Bản thân bị cáo Nguyễn M có nhân thân xấu, từng bị xử phạt về hành vi Cướp tài sản. Mặc dù bản án này đã được xoá án tích, nhưng lại thể hiện bị cáo có nhân thân xấu.

Trong vụ án này các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa các bị cáo khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội nên áp dụng điểm s Khoản 1 Điều 51 của bộ luật hình sự. Bị cáo Nguyễn M có bố đẻ là Liệt sỹ nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Điểm x Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Nguyễn Thế H thể hiện thái độ ăn năn hối cải khi thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Bản thân bị cáo lần đầu phạm tội, có nhiều giấy khen, bằng khen trong công tác phòng chống tội phạm trong thời gian công tác tại lực lượng Công an nhân dân. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự,cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, động cơ, mục đích, nguyên nhân và điều kiện phạm tội, nhân thân của các bị cáo, xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhưng nhẹ hơn mức thấp nhất mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo Nguyễn M.

Bị cáo Nguyễn Thế H có nhiều tình tiết giảm nhẹ tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51. Vì vậy, áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự cho bị cáo hưởng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà là thoả đáng.

Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo không có thu nhập ổn định, không có điều kiện thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của Nguyễn M và Nguyễn Thế H;

01 cân điện tử, số túi nilong thu giữ tại nhà Nguyễn M.

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại Iphone thu giữ của Nguyễn Thế H đã sử dụng vào việc mua bán trái phép chất ma túy.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thế H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng Điểm p, Khoản 2 Điều 251; Điểm s,x Khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn M: 09 (chín) năm, 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/11/2019.

Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1,2 Điều 51; Điều 54 và Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế H: 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Bị cáo được trừ 10 (Mười) ngày tạm giữ, từ ngày 11/11/2019 đến ngày 20/11/2019.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa ma túy đã giám định, bên ngoài có chữ ký giáp lai của Nguyễn Thế H và giám định viên.

+ 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa ma túy đã giám định, bên ngoài có chữ ký giáp lai của Nguyễn M và giám định viên.

+ 01 phong bì niêm phong có chứa cân điện tử, bên ngoài có chữ ký giáp lau của Nguyễn M và giám định viên.

+ 50 túi nilong màu trắng kích thước khoảng (3x6)cm chưa sử dụng.

+ 50 túi nilong màu trắng kích thước khoảng (1x1)cm chưa sử dụng.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen, số sim: 09744657**; đã qua sử dụng, không kiểm qua chất lượng bên trong; tại thời điểm bàn giao không lên nguồn.

(Đặc điểm, số lượng, tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng số 155/20 ngày 13/5/2020 giữa Chi cục thi hành án quận B và Công an quận B).

4. Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự hình sự năm 2015. Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Nguyễn M và Nguyễn Thế H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 90/2020/HS-ST ngày 22/05/2020 về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:90/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về