Bản án 90/2019/HSST ngày 26/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN, TỈNH TN

BẢN ÁN 90/2019/HSST NGÀY 26/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 3 năm 2019 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố TN xét xử sơ thẩm công Ki vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 104/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 106/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo: Họ và tên: Trần Minh K, sinh ngày 09/7/1987

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: xóm 9, xã PX, huyện ĐT, tỉnh TN. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Nùng; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 11/12; nghề nghiệp: Không. Con ông Trần Văn D, sinh năm 1962. con bà Hầu Thị L, sinh năm 1964, đều trú tại xóm 9, xã PX, huyện ĐT, tỉnh TN. Gia đình có 04 chị em, bị cáo là con thứ 03, có vợ Nông Thị L1, sinh năm 1986, có 01 con sinh năm 2013, hiện trú tại thôn Chợ, xã XD, huyện NR, tỉnh BK. Tiền án, tiền sự: Không.

- Nhân thân:

Tại Bản án số 10/2014/HSST ngày 26/3/2014 của Tòa án nhân dân huyện NR, tỉnh BK xử phạt 06 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”. Ra trại ngày 20/6/2014. Chấp hành xong án phí ngày 06/5/2014.

Tại Quyết định số 0075493/QĐ-XPHC ngày 29/01/2019 Công an thành phố TN xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng), chưa nộp phạt.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/11/2018 đến nay

(Có mặt tại phiên tòa)

Người bị hại: Bà Đặng Thị L2, sinh năm 1968. Địa chỉ đội 5, thị trấn HS, ĐT, TN. (Có mặt tại phiên tòa)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Hoàng Thị Tt, sinh năm 1969. Địa chỉ xóm 1, xã PH, thành phố TN.

(Có đơn xin xét xử vắng mặt)

Người chứng kiến:

- Ông Nguyễn Hữu Đ, sinh năm 1950. Địa chỉ tổ 12, phường P, thành phố TN, tỉnh TN, (vắng mặt tại phiên tòa);

- Anh Lưu Đức Vt, sinh năm 1987. Địa chỉ xóm T, xã Th, huyện Đ, tỉnh TN (vắng mặt tại phiên tòa);

- Anh Nguyễn Đức H, sinh năm 1969. Địa chỉ tổ 12, phường Q, thành phố TN (vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 21 giờ ngày 30/11/2018, tổ công tác của Đội Cảnh sát hình sự Công an thành phố Thái Nguyên đang làm nhiệm vụ tại khu vực phường P, thành phố TN thì nhận được tin báo của quần chúng nhân dân tại tầng 2 khoa phụ sản – Bệnh viện đa khoa Trung ương TN thuộc tổ 13, phường P, thành phố TN có 01 nam thanh niên nghi vấn biểu hiện liên quan đến ma túy và trộm cắp tài sản. Tổ công tác phối hợp với Công an phường P và tổ dân phố số 13, phường P tiến hành xác minh nam thanh niên có đặc điểm như tin báo, nam thanh niên tự khai tên là Trần Minh K và tự giác giao nộp từ trong túi quần K đang mặc có 01 gói giấy bạc màu vàng , bên trong chưa chât bôt mau trăng (K khai là Heroine mua để sử dụng cho ban thân). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với K và thu giữ vật chứng theo đúng quy định .

Cùng ngày tiến hành mở niêm phong cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của K là 0,137 gam (niêm phong kí hiệu K1 gửi giám định). Tại Kết luận giám định số 81/KL-PC09 ngày 07/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của K là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,137 gam .

Tại Cơ quan điều tra, Trần Minh K khai nhận: Nguồn gốc số tiền K sử dụng để đi mua Heroine là do K trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mobistar E Selfie Gold, màu vàng, số IMEI: 359060420907538 đã qua sử dụng (sau xác định là tài sản của bà Hoàng Thị Tt, sinh năm 1969, HKTT: xóm 1, xã PH thành phố TN) vào khoảng 05 giờ ngày 30/11/2018 tại khu vực Bệnh viện Đa khoa Trung ương TN thuộc tổ 13, phường P, thành phố TN. Sau khi trộm cắp xong, khoảng 07 giờ cùng ngày, K đi từ phòng trọ của vợ K tại tổ 7, phường Tích Lương, thành phố TN đến khu vực bến xe khách cũ thành phố TN để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây K gặp một người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ), K đổi 02 chiếc điện thoại K trộm cắp được cho người đàn ông này lấy 03 gói Heroine được bọc trong giấy bạc màu vàng, K đã sử dụng được hơn một gói Heroine, số Heroine còn lại K dồn lại trong một gói giấy bạc màu vàng và cất bên trong ví để ở túi quần sau K đang mặc. Đến 18 giờ 30 phút ngày 30/11/2018, K vào bệnh viện Đa khoa Trung ương TN thăm người nhà đến khoảng 21 giờ cùng ngày thì bị tổ công tác phát hiện bắt quả tang như nêu trên.

Tại Kết luận định giá tài sản số 11/HĐĐGTS ngày 13/01/2019 của Hội đồng Định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố TN kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobistar E Selfie Gold, màu vàng, đã qua sử dụng có trị giá 1.500.000 đồng. Hiện tài sản không thu hồi được.

Đối với hành trộm cắp tài sản trên không đủ yêu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản, Cơ quan Công an thành phố TN đã có Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0075493/QĐ-XPHC ngày 28/01/2019.

Ngoài ra, Trần Minh K khai nhận còn thực hiện 01 vụ trộm cắp tài sản khác mục đích bán lấy tiền mua ma túy sử dụng cho bản thân. Cụ thể như sau:

Khoảng 05 giờ ngày 25/11/2018, K ngủ ở ngoài ghế phía trước cửa phòng 202, tầng 2 Khoa Ngoại thần kinh, Bệnh viện Đa khoa Trung ương TN thuộc tổ 13, phường P, thành phố TN để chăm sóc người nhà đang nằm viện, K lên cơn vật thuốc nên đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản trong các phòng bệnh để mang đi bán lấy tiền mua ma túy sử dụng. K đi vào phòng 201, quan sát thấy bệnh nhân và người nhà bệnh nhân trong phòng đang nằm ngủ, K đi vào phòng tìm tài sản để trộm cắp thì phát hiện trên bàn để đồ làm bằng inox ở giữa giường thứ nhất và giường thứ hai bên trái hướng từ ngoài đi vào của phòng có để 02 điện thoại di động bao gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S, màu hồng, bản 16GB đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37FW, màu vàng đã qua sử dụng (sau xác định là tài sản của bà Đặng Thị L2, sinh năm 1968, HKTT: Đội 5, thị trấn Hùng Sơn, huyện ĐT, tỉnh TN). K dùng tay cầm lấy 02 chiếc thoại nêu trên rồi cho vào túi quần K đang mặc và đi ra ngoài bệnh viện. Đến 07 giờ ngày 26/11/2018, K đi xe bus từ phòng trọ của vợ tại tổ 7, phường Tích Lương, thành phố TN đến khu vực bến xe khách cũ TN để mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây, K gặp một người phụ nữ (không rõ lai lịch, địa chỉ), K đổi 02 chiếc điện thoại K trộm cắp được cho người phụ nữ này lấy 01 gói Heroine được bọc trong giấy bạc màu trắng. K cầm lấy gói Heroine đó và đã sử dụng hết.

Đến khoảng 06 giờ ngày 25/11/2018, bà L2 tỉnh dậy thì phát hiện bị mất tài sản nên đến ngày 10/12/2018 đã làm đơn trình báo Công an thành phố TN đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại Kết luận định giá tài sản số 10 ngày 12/01/2019 của Hội đồng Định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP TN xác định: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S, màu hồng, bản 16GB đã qua sử dụng có trị giá 3.000.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37FW, màu vàng đã qua sử dụng có trị giá 1.400.000 đồng. Tổng giá trị tài sản mà K đã trộm cắp là 4.400.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra, Trần Minh K thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên. Lời khai của K phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám nghiệm hiện trường, lời khai của người bị hại, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, kết luận định giá tài sản.

Vật chứng của vụ án:

- 01 bì niêm phong kí hiệu K1, bên trong chứa chất ma túy; 01 bì niêm phong kí hiệu K2. Số vật chứng trên hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN chờ xử lý.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S, màu hồng, bản 16GB đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37FW, màu vàng đã qua sử dụng. Số vật chứng trên hiện không thu hồi được.

Về trách nhiệm dân sự: Bà L2 yêu cầu K bồi thường số tiền 4.400.000 đồng giá trị 02 chiếc điện thoại di động mà K trộm cắp của bà L2. Phần dân sự đến nay chưa giải quyết xong.

Tại bản Cáo trạng số 104/CT-VKSTPTN ngày 21 tháng 02 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN đã truy tố bị cáo Trần Minh K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, và tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 249 và khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Ki nhận hành vi phạm tội của mình như như nội dung bản cáo trạng truy tố.

Trong phần luận tội, tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN tóm tắt nội dung vụ án, phân tích các căn cứ quy kết bị cáo Trần Minh K về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và tội Trộm cắp tài sản; đánh giá nhân thân; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ đó đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Minh K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249 và khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự; s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với cả hai tội trộm cắp tài sản và tàng trữ trái phép chất ma túy; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt Trần Minh K từ 18 tháng đến 24 tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và từ 12 tháng đến 18 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản. Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự buộc bị cáo phải chấp hành chung cho cả hai tội là từ 30 tháng đến 42 tháng tù giam, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo

- Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xử lý: Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong kí hiệu K1, bên trong chứa chất ma túy; 01 bì niêm phong kí hiệu K2.

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự Buộc bị cáo phải bồi thường số tiền 4.400.000 đồng giá trị 02 chiếc điện thoại di động cho bà Đặng Thị L2 và bồi thường số tiền 1.500.000đ giá trị 01 chiếc điện thoại cho bà Hoàng Thị Tuyết do K đã trộm cắp.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Trộm cắp tài sản” là không oan, đúng người, đúng tội, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Phần lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố TN, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, không có ý kiến hoặc kiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ qua n tiến hành tố tụng. Do đó các Quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạ m tội của mình như bản cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan Điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định, kết luận định giá tài sản, đơn trình báo, lời Ki của bị hại, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ và những chứng cứ tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xử có đủ căn cứ kế t luận: Hồi 05 giờ ngày 25/11/2018, tại tổ 13, phường P, thành phố TN, Trần Minh K đã có hành vi trộm cắp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S, màu hồng, bản 16GB đã qua sử dụng có trị giá 3.000.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37FW, màu vàng đã qua sử dụng có trị giá 1.400.000 đồng của bà Đặng Thị L2, mục đích mang đi bán lấy tiền mua ma túy sử dụng cho bản thân. Đến 21 giờ ngày 30/11/2018, tại tổ 13, phường P, thành phố TN, Trần Minh K có hành vi tàng trữ 0,137 gam Heroine, mục đích sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an thành phố TN phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng. 02 chiếc điện thoại hiện không thu hồi được. Bà L2 đề nghị K bồi thường số tiền 4.400.000 đồng giá trị 02 chiếc điện thoại di động mà K trộm cắp của bà L2. Phần dân sự đến nay chưa giải quyết xong.

[3].Đánh giá của Hội đồng xét xử:

3.1. Về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy: Bị cáo biết ma túy là vật cấm được Nhà quản lý nhưng vẫn cố tình tàng trữ 0,137 gam Heroine để sử dụng cho bản thân do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật:

Nội dung điều 249 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy ... thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)...

...

c) Heroine ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

3.2. Về tội Trộm cắp tài sản: Bị cáo có hành vi lén lút, trộm cắp tài sản của bà Đặng Thị L2 trong lúc bà L2 là người bệnh đang điều trị trong bệnh viện, tổng giá trị tài sản bị cáo trộm cắp là 4.400.000 đồng (bốn triệu bốn trăm nghìn đồng), nên hành vi của bị cáo đã đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Nội dung điều 173 quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng … thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[4] Xét tính chất mức độ của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng chất gây nghiện và xâm phạm trực tiếp đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ gây mất trật tự trị an ở địa phương.

[5] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy:

5.1. Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự có nhân thân rất xấu như: Năm 2014 bị Tòa án nhân dân huyện NR, tỉnh BK xử phạt 06 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” và ngày 30/11/2018 bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mobistar của bà Hoàng Thị T, sinh năm 1969, địa chỉ xóm 1, xã PH, thành phố TN, hành vi này đã bị Công an thành phố TN xử phạt vi phạm hành chính.

5.2. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn Ki báo, ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xét thấy, bị cáo là người nghiện ma túy, ham chơi, lười lao động, không tu dưỡng rèn luyện bản thân, mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo tại phiên tòa đối với cả hai tội là phù hợp. Hội đồng xét xử xem xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để lên một mức án phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội để bị cáo, thấy được sự nghiêm khắc của pháp luật, có ý thức rèn luyện bản thân, cải tạo trở thành người tốt.

[6] Vật chứng của vụ án:

- 01 bì niêm phong kí hiệu K1, bên trong chứa chất ma túy; 01 bì niêm phong kí hiệu K2 là vật cấm và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S, màu hồng, bản 16GB đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37FW, màu vàng đã qua sử dụng. Số vật chứng trên hiện không thu hồi được.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự Buộc bị cáo phải bồi thường số tiền 4.400.000 đồng giá trị 02 chiếc điện thoại di động cho bà Đặng Thị L2.

Đối với chiếc điện thoại của bà Hoàng Thị Tuyết bị cáo trộm cắp ngày 30/11/2018 trị giá 1.500.000đ. Tại cơ quan điều tra bà T yêu cầu bị cáo phải bồ thường trị giá chiếc điện thoại theo kết luận định giá của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự nên cần buộc bị cáo phải bồi thường cho bà T.

[8] Về hình phạt bổ sung và án phí

- Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù lẽ ra Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, nhưng theo biên bản xác minh, và tại phên tòa bị cáo khai là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng, nên Hội đồng xét xử không phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Về nguồn gốc số Heroine bị thu giữ, Trần Minh K khai đã mua của 01 người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ) vào khoảng 07 giờ ngày 30/11/2018 tại khu vực bến xe khách cũ thành phố TN. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch địa chỉ của đối tượng này nên Cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Quá trình điều tra xác định Trần Minh K còn thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mobistar E Selfie Gold, màu vàng, số IMEI: 359060420907538 đã qua sử dụng là tài sản của bà Hoàng Thị Tt, sinh năm 1969, địa chỉ xóm 1, xã PH, thành phố TN có giá trị là 1.500.000đồng (một triệu năm trăm nghìn). Do hành vi không cấu thành tội phạm nên Công an thành phố TN đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Trần Minh K theo quy định.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:

1. Bị cáo Trần Minh K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Điều 55; Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Trần Minh K 18 (Mười tám) tháng tù giam về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và 18 (Mười tám) tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự buộc bị cáo Trần Minh K phải chấp hành chung cho cả hai tội là 36 (Ba mươi sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 30/11/2018. Không phạt bổ sung đối với bị cáo;

Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 357; Điều 468 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo phải bồi thường số tiền 4.400.000đồng (Bốn triệu bốn trăm nghìn) giá trị 02 chiếc điện thoại di động cho bà Đặng Thị L2 và bồi thường số tiền 1.500.000đồng (Một triệu năm trăm nghìn) giá trị 01 chiếc điện thoại cho bà Hoàng Thị T.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án chậm thi hành án thì phải chịu lãi suất đối với số tiền chậm thi hành án theo quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 của Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự.

-Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong kí hiệu K1, bên trong chứa chất ma túy và 01 bì niêm phong kí hiệu K2; theo biên bản giao nhận vật chứng số 165 ngày 22/02/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN.

4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm và 295.000 đồng (hai trăm chín mươi lăm nghìn) án phí dân sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà Nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 90/2019/HSST ngày 26/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:90/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về