Bản án 89/2018/HNGĐ-ST ngày 20/03/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PT, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 89/2018/HNGĐ-ST NGÀY 20/03/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 20 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện PT xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 358/2017/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 11 năm 2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2018/QĐXXST – HNGĐ ngày 31 tháng 01 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trương Kim T, sinh năm 1990. (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp NT 1, xã NA, huyện PĐ, thành phố Cần Thơ.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1991. (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp VN, xã TT, huyện PT, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Chị Kim T trình bày: Sau thời gian tìm hiểu và được sự chấp nhận của cha mẹ hai bên, tổ chức lễ cưới cho anh chị vào năm 2013, có đăng ký kết hôn tại UBND xã NA, huyện PĐ, tỉnh Cần Thơ và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 168KH/2013, quyển số 02, ngày 29/10/2013. Sau khi cưới vợ chồng làm công nhân ở Sài Gòn, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, sau thì phát sinh mâu thuẩn, do anh Th không lo chí thú làm ăn, thường xuyên nhậu nhẹt, chị có nhiều lần khuyên ngăn nhưng không được, vợ chồng thường xuyên cải vả nhau, đến tháng 10/2017 chị T dắt con về nhà cha mẹ ruột sinh sống, vợ chồng ly thân từ đó đến nay, tình cảm không còn, không thể hàn gắn, yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn Th.

- Về con chung của vợ chồng: có một con chung tên Nguyễn Anh D, sinh ngày 21/9/2013, hiện đang sống với chị T, chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu anh Th cấp dưỡng.

- Về tài sản của vợ chồng: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung của vợ chồng: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra không ý kiến và yêu cầu nào khác.

* Anh Nguyễn Văn Th đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do, nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của anh Th.

Tại phiên tòa, anh Th vẫn vắng mặt, không lý do.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu: Thẩm phán, Hội đồng xét xử; nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không lý do thể hiện ý thức chấp hành pháp luật chưa nghiêm.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Anh Th, chị T có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Trong thời gian anh chị sống chung phát sinh nhiều mâu thuẫn và ly thân từ giữa năm 2016 cho đến nay nhưng vẫn không hàn gắn được hạnh phúc gia đình, nên nguyên đơn xin ly hôn với bị đơn là phù hợp quy định pháp luật.

Về con chung: có một con chung tên Nguyễn Anh D, sinh ngày 21/9/2013, hiện đang sống với chị T, chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu anh Th cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa và lý lẽ của nguyên đơn và bị đơn. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Th đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 vẫn vắng mặt không lý do. HĐXX căn cứ vào khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt đối với anh Th.

- Bị đơn có nơi cư trú tại ấp VN, xã TT, huyện PT, tỉnh An Giang nên căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện PT, tỉnh An Giang.

[2] Về hôn nhân: Anh Th, chị T có tổ chức lễ cưới và tự nguyện đi đăng ký kết hôn tại UBND xã NA, huyện PĐ, tỉnh Cần Thơ và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 168KH/2013, quyển số 02, ngày 29/10/2013 theo quy định tại khoản 1, khoản 5 Điều 3, Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, chị T nhận thấy không còn tình cảm với anh Th, cuộc sống chung không thể hàn gắn được vì ly thân trên một năm mà anh chị không liên hệ. Qua xác minh, ông Ngô Tấn N là Trưởng ấp VN, ông trình bày: Vợ chồng anh Th, chị T không sống chung với nhau khá lâu, mỗi khi anh Th về nhà thì chỉ thấy anh Th chứ không thấy chị T đi cùng. Hội đồng xét xử nhận định: cuộc sống chung của anh Th, chị T không hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của chị T đối với anh Th là có căn cứ. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T đối với anh Th.

[3] Về con chung: Nguyễn Anh D, sinh ngày 21/9/2013, hiện đang sống với chị T, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu anh Th cấp dưỡng và anh Th không có ý kiến phản đối. Hội đồng xét xử dành quyền cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng cháu D là phù hợp. Tuy nhiên, chị T phải tạo điều kiện thuận lợi khi anh Th đến thăm nom và giáo dục con sau khi ly hôn, không ai được cản trở anh Th thực hiện quyền này được quy định tại Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình, vì lợi ích của con chung, một trong hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con; cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: chị T không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, anh Th không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 3; Điều 8; Điều 9; Điều 51; Điều 53; Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình 2014; Điều 147; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu ly hôn giữa chị Trương Kim T đối với anh Nguyễn Văn Th.

Về con chung: Chị Trương Kim T được quyền tiếp tục nuôi dưỡng cháu Nguyễn Anh D, sinh ngày 21/9/2013 đến thành niên hoặc tự lập được. Chị T phải tạo điều kiện thuận lợi khi anh Th đến thăm nom và giáo dục con sau khi ly hôn, không ai được cản trở anh Th thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T không yêu cầu, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung: không yêu cầu, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu, Hội đồng xét xử không đề cặp giải quyết.

Về án phí: Chị Trương Kim T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được khấu trừ vào biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0016408 ngày 29 tháng 11 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện PT. Anh Nguyễn Văn Th không phải chịu án phí. Anh Th, chị T được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 89/2018/HNGĐ-ST ngày 20/03/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:89/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về