Bản án 88/2020/HS-ST ngày 29/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 88/2020/HS-ST NGÀY 29/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 88/2020/TLST-HS ngày 09/7/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 88/2020/QĐXXST-HS ngày 15/7/2020 đối với:

Bị cáo: Vàng A T, sinh năm 1966 tại huyện M, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tiểu khu P3, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): 4/10; dân tộc: Mông; giơi tinh : Nam; Tn giáo : Không; quôc tich : Viêt Nam ; con ông Vàng A K và bà Sồng Thị V (đều đã chết); bị cáo có vợ là Giàng Thị S và 04 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/6/2020 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 20 phút ngày 09/6/2020, tổ công tác Công an huyện Mộc Châu làm nhiệm vụ tại khu vực tiểu khu P, thị trấn N, huyện M kiểm tra đối với Vàng A T đang ở trong vườn mận. Qua kiểm tra phát hiện T đang cầm trên tay trái 01 gói nilon màu trắng bên trong đựng cục chất bột màu trắng nghi là Heroine. Vàng A T khai nhận gói nilon màu trắng, bên trong đựng cục chất bột màu trắng nghi là Heroine của T cất giấu mục đích sử dụng cho bản thân nghiện chất ma tuý. Căn cứ hành vi vi phạm, tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng và dẫn giải T đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu để điều tra làm rõ.

Ngày 09/6/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu tiến hành xác định khối lượng cục chất bột màu trắng thu giữ của Vàng A T được 0,15 gam, lấy 0,07 gam làm mẫu trưng cầu giám định, mẫu có ký hiệu T.

Tại Kết luận giám định số 951 ngày 12/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La: “Mẫu gửi giám định T là ma tuý; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,07 gam; tổng khối lượng ma tuý thu giữ là 0,15 gam; loại Heroine; hoàn lại đối tượng giám định: Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định”.

Quá trình điều tra Vàng A T khai nhận: Bản thân nghiện chất ma tuý. Khoảng 9h ngày 09/6/2020, T đi từ nhà ở tiểu khu P3, thị trấn N đến tiểu khu P mục đích để tìm mua ma tuý sử dụng. Khi đang đi trên đường dân sinh, T gặp một người phụ nữ dân tộc Mông, không biết tên địa chỉ đang đi bộ, T hỏi và mua được của người đó 01 gói nillon màu trắng, bên trong đựng Heroine với giá 13.000 đồng mục đích để sử dụng. Sau khi mua được ma tuý, T cầm trong lòng bàn tay trái rồi đi về, trên đường đi về gặp tổ công tác Công an huyện Mộc Châu kiểm tra phát hiện, bắt quả tang.

Tại phiên tòa bị cáoVàng A T trình bày ý kiến, giữ nguyên lời khai của mình, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung nào làm thay đổi nội dung vụ án. Bị cáo nhận tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Đối với người phụ nữ dân tộc Mông đã bán ma tuý cho Vàng A T như T đã khai, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu không có căn cứ để điều tra, làm rõ.

Cáo trạng số 89/CT-VKS ngày 08/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố bị can Vàng A T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vàng A T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và áp dụng các căn cứ pháp luật như sau:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Vàng A T từ 18 tháng đến 21 tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 09/6/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ Vàng A T, bắt ngày 09/6/2020 bên trong đựng 0,08 gam cục chất bột màu trắng, mảnh nilon màu trắng và vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Vàng A T ngày 09/6/2020 kq: Dương tính.

3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Sau khi Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm xử lý các vấn đề của vụ án. Bị cáo nhất trí với cáo trạng và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Vàng A T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan Điêu tra, số ma túy bị tổ công tác Công an huyện Mộc Châu thu giữ của bị cáo vào ngày 09/6/2020 có nguồn gốc mua được của một người phụ nữ dân tộc Mông với giá 13.000 đồng, mục đích sử dụng cho bản thân. Lời khai của bị cáo không có nội dung gì thay đổi so với lời khai tại cơ quan Cảnh sát điều tra, bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan Điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với hành vi đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Vàng A T do tổ công tác Công an huyện Mộc Châu lập vào hồi 11 giờ 30 phút ngày 09/6/2020; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ ngày 09/6/2020; biên bản mở niêm phong xác định số lượng, khối lượng, lấy mẫu giám định, niêm phong lại vật chứng đồ vật, tài liệu bị tạm giữ ngày 09/6/2020; bản kết luận giám định số 951 ngày 12/6/2020 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận “Mẫu gửi giám định kí hiệu T là ma túy; Loại Heroine; khối lượng mẫu gửi giám định là 0,07 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,15 gam, loại Heroine” nằm trong danh mục I, STT: 9 Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng trong quá trình điều tra, các tài liệu, chứng cứ của cơ quan Điều tra đã thu thập được trong hồ sơ vụ án, lời khai của người chứng kiên sư viêc và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Vàng A T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của việc tàng trữ, sử dụng ma túy. Nhưng do nghiện chất ma túy nên ngày 09/6/2020 bị cáo Vàng A T đã có hành vi tàng trữ, cất giấu trái phép 0,15 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo Vàng A T không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng nên chỉ bị xét xử ở điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy , nhận thức rõ tác hại của ma túy và việc cât giư trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thưc hiên. Do vây, cần quyết định hình phạt nghiêm khắc và phù hợp nhằm răn đe, giáo dục bị cáo, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) đến 500.000.000 đồng (Năm trăm triệu đồng).

Hội đồng xét xử xét thấy quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản riêng có giá trị, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[5] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ Vàng A T, bắt ngày 09/6/2020 bên trong đựng 0,08 gam cục chất bột màu trắng, mảnh nilon màu trắng và vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Vàng A T ngày 09/6/2020 kq: Dương tính. Xét thấy đây là những vật thuộc loại Nhà nước cấm mua bán, lưu hành, tàng trữ, vật không có giá trị sử dụng. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy [6] Về các vấn đề khác:

Đối với người phụ nữ dân tộc Mông đã bán ma túy cho cho Vàng A T tại khu vực tiểu khu P, thị trấn N. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ. Do đó, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu không có căn cứ để điều tra, làm rõ và xử lý.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) phù hợp với khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Vàng A T để đảm bảo cho việc thi hành án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Vàng A T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Vàng A T 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 09/6/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ Vàng A T, bắt ngày 09/6/2020 bên trong đựng 0,08 gam cục chất bột màu trắng, mảnh nilon màu trắng và vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy đối với Vàng A T ngày 09/6/2020 kq: Dương tính.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án buộc bị cáo Vàng A T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn).

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 88/2020/HS-ST ngày 29/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:88/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về