Bản án 88/2019/HSST ngày 28/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 88/2019/HSST NGÀY 28/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 5 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 80/2019/HSST ngày 26 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 94/2019/HSST- QĐXX ngày 13 tháng 5 năm 2019, đối với các bị cáo:

1. Trương Văn Th, sinh năm 1991 tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; HKTT: số 31 đường Tr, phường B, TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Nơi ở: số 15/17 đường Q, phường B, TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: sơn nước; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên Chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn L, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị Cẩm H, sinh năm 1967; Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Kim O, sinh năm 1994 và có 01 người con, sinh năm 2017; tiền sự và tiền án: không; Bị cáo bị bắt ngày 01 tháng 01 năm 2019, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu (có mặt).

2.Nguyễn Minh S, sinh năm 1999 tại tỉnh Đồng Tháp; HKTT: ấp A, xã B, TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp; Nơi ở: 170 đường Th, phường B, TP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: nhân viên quán bar; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1968 và bà Huỳnh Thị Mỹ Th, sinh năm 1969; tiền sự và tiền án: không; Bị cáo bị bắt ngày 01 tháng 01 năm 2019, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị Cẩm H , sinh năm 1967 (là mẹ ruột của Trương Văn Th); Nơi cư trú: số 15/17 đường Lạc Long Q , phường B, TP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt);

2. Ông Nguyễn Văn H , sinh năm: 1968 (cha ruột của Nguyễn Minh S); Nơi cứ trú: ấp A, xã B, TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16h50' ngày 01/01/2019, tại trước cửa nhà số 90 đường Tr, phường D, TP Vũng Tàu, Đoàn đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 3- Bộ Tư Lệnh- Cảnh sát biển (Đoàn ĐNPCTPMT số 3 - BTL CSB) kết hợp với Công an phường D, TP Vũng Tàu kiểm tra, bắt quả tang Nguyễn Minh S và Trương Văn Th đang tàng trữ 01 gói nylon hàn kín, bên trong chứa chất kêt tinh màu trắng (thu trong túi áo khoác của S , S và Th cùng khai là ma túy tổng hợp, MTTH, loại Hàng Đá), đồng thời cơ quan chức năng thu giữ của S 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu vàng đồng và 01 xe mô tô biển số: 66P1- 527.20, số máy: VLFKV1P52FMH3*4F408065, số khung: 008055; thu giữ của Thọ: 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu tím và 5.300.000 đồng.

Quá trình điều tra, Nguyễn Minh S và Trương Văn Th cùng khai nhận: S và Th quen biết nhau khoảng 03 tháng trước tại quán Bar TGT đường L, TP Vũng Tàu. Cả hai cùng sử dụng MTTH loại Hàng Đá từ trước. Khoảng 16h30 ngày 01/01/2019, S và Th mỗi người góp 250.000 đồng, rồi đến khu vực vòng xoay Tượng đài Dầu khí TP Vũng Tàu mua 01 gói MTTH của một người đàn ông không rõ lai lịch bán với giá: 500.000 đồng, trên đường về nhà nghỉ để cùng sử dụng thì bị cơ quan chức năng kiểm tra bắt quả tang như trên (BLĐT: 31 đến 38, 48 đến 54).

Lời khai của Nguyễn Minh S và Trương Văn Th phù hợp chứng cứ thu thập được.

Tại Bản kết luận giám định số 06/GĐMT-PC09(Đ4) ngày 04 tháng 01 năm 2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu kết luận:

Mẫu chất kết tinh không màu- trong suốt chứa trong 01 (một) gói nylon hàn kín, được niêm phong trong một phong bì màu trắng, có hình dấu của công an phường D - CATP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, cùng các chữ ký ghi họ tên: Trung tá Đỗ Đình C, Hoàng Đình Ng , Nguyễn Minh S, Trương Văn Th, Trần Văn B, gửi đến giám định có khối lượng 0,8166 gam, là chất ma túy, loại Methamphetamine.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho S và Th, do không rõ lai lịch, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Đối với chiếc xe mô tô biển số: 66P1-527.20, có số máy: VLFKV1P52FMH3*4F408065, số khung: 008055, qua điều tra xác định anh Phạm Hồng H, sinh năm 1996, HKTT: 215 tổ I, khóm K, phường X, TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, đứng tên chủ sở hữu. Anh H khai, anh đã bán chiếc xe trên cho một người đàn ông tên N không rõ lai lịch vào năm 2016 (việc mua bán S tay). Ông Nguyễn Văn H , sinh năm: 1968, chỗ ở: ấp A, xã B, TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, cha ruột của S , khai: ông H là người đã mua chiếc xe trên của người làm nghề sửa xe tại TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp và gửi chiếc xe trên đến TP Vũng Tàu để S làm phương tiện đi làm. Trong thời gian sử dụng xe, S đã làm mất giấy đăng ký xe.

Ngày 24/3/2019, Cơ quan CSĐT đã ra thông báo trên Báo Bà Rịa – Vũng Tàu tìm chủ sở hữu xe mô tô chiếc xe mô tô hiệu WAVE, biển số: 66P1-527.20, số máy: VLFKV1P52FMH3*4F408065, và chuyển giao xe trên đến Chi cục Thi hành án dân sự TP Vũng Tàu quản lý.

Đối với số tiền 5.300.000 đồng thu giữ của Thọ, bà Nguyễn Thị Cẩm H , sinh năm 1967, là mẹ ruột của Trương Văn Th, HKTT: 31 đường Tr, phường B, TP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, chỗ ở: 15/17 đường Q, phường B, TP Vũng Tàu, khai: Ngày 01/01/2019 bà có đưa cho Th số tiền 5.000.000 đồng để trả nợ cho ông Huỳnh Văn L ở số 8/2 đường T, phường T, TP Vũng Tàu. Trong lúc Th đang trên đường đi trả nợ thì bị Công an bắt nên chưa đi trả nợ được. Bà H không biết và không liên quan đến việc tàng trữ trái phép chất ma túy của Nguyễn Minh S và Trương Văn Th, nên Cơ quan CSĐT đã chuyển giao số tiền trên đến Chi cục Thi hành án dân sự TP Vũng Tàu quản lý.

Bản cáo trạng số 88/CT-VKS ngày 22-4-2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố Trương Văn Th và Nguyễn Minh S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi các bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Trương Văn Th và Nguyễn Minh S, mỗi bị cáo mức án từ 12 đến 18 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về xử lý vật chứng: đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy là tang vật trong vụ án; Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu vàng đồng, kèm sim của bị cáo S và 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu tím, kèm sim của bị cáo Th; Trả lại cho ông Nguyễn Văn H 01 xe mô tô biển số: 66P1- 527.20, số máy: VLFKV1P52FMH3*4F408065, số khung: 008055 và trả lại cho bà Nguyễn Thị Cẩm H số tiền 5.300.000 đồng.

Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng và ý kiến luận tội của Viện kiểm sát, công nhận Viện kiểm sát truy tố đúng tội danh; các bị cáo không có ý kiến gì tự bào chữa cho hành vi phạm tội của mình, chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ một phần mức án.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vũng Tàu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bô ̣ hành vi phaṃ tội của mình. Đối chiếu lời khai nhận của các bị cáo và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 16h50' ngày 01/01/2019, tại trước cửa nhà số 90 đường Tr, phường D, TP Vũng Tàu, Đoàn đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 3- Bộ Tư Lệnh- Cảnh sát biển (Đoàn ĐNPCTPMT số 3 - BTL CSB) kết hợp với Công an phường D , TP Vũng Tàu kiểm tra, bắt quả tang Nguyễn Minh S và Trương Văn Th đang tàng trữ 0,8166 gam Methamphetamine. Như vậy, hành vi các bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội các bị cáo đã gây ra là nguy hiểm cho xã h ội; là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tệ nạn xã hội và tội phạm khác, ảnh hưởng xấu đến trật tự an ninh tại địa phương. Các bị cáo là người đã trưởng thành có đầy đủ năng lực hành vi, là người sử dụng ma túy nên biết việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, áp dụng hình phạt tù có thời hạn tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo nhằm giáo dục cải tạo riêng đối với các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự;

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối c ải nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 nên xem xét giảm cho các bị cáo một phần hình phạt.

[5]Về xử lý vật chứng:

- 01 gói ma túy niêm phong số 06/GĐMT-PC09(Đ4) ngày 04-01-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là chất nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy;

- 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu vàng đồng, kèm sim của bị cáo S và 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu tím, kèm sim của bị cáo Th là tài sản liên quan đến tội phạm nên tịch thu sung công quỹ;

- 01 xe mô tô biển số: 66P1- 527.20, số máy: VLFKV1P52FMH3*4F408065, số khung: 008055 là tài sản của ông Nguyễn Văn H , ông H đưa cho bị cáo S sử dụng để đi làm, ông không biết bị cáo sử dụng vào việc đi mua ma túy nên trả lại cho ông H;

- Số tiền 5.300.000 đồng là tài sản của bà Nguyễn Thị Cẩm H , bà H đưa cho bị cáo Th để đi trả nợ nên trả lại cho bà H.

[6] Về án phí : Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trương Văn Th, Nguyễn Minh S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý ”.

2. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015:

- Xử phạt Trương Văn Th 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 01 tháng 01 năm 2019.

- Xử phạt Nguyễn Minh S 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 01 tháng 01 năm 2019.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói ma túy niêm phong số 06/GĐMT-PC09(Đ4) ngày 04-01-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;

- Tịch thu sung công quỹ: 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu vàng, kèm sim của bị cáo S và 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu tím, kèm sim của bị cáo Th;

- Trả lại cho ông Nguyễn Văn H : 01 xe mô tô biển số: 66P1- 527.20, số máy: VLFKV1P52FMH3*4F408065, số khung: 008055;

- Trả lại cho bà Nguyễn Thị Cẩm H : số tiền 5.300.000 đ (năm triệu ba trăm ngàn đồng).

Vật chứng nêu trên Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng số: 115/BB.THA ngày 26-4-2019 và biên lai thu tiền số 0002038 ngày 26-4-2019.

4.Án phí: Bị cáo Th và bị cáo S , mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 88/2019/HSST ngày 28/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:88/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về