Bản án 87/2020/HS-ST ngày 11/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 87/2020/HS-ST NGÀY 11/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 99/2020/TLST-HS ngày 28 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2020/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo: Trịnh Văn T, sinh ngày 01 tháng 11 năm 1998 tại tỉnh T. Nơi cư trú: Thôn N, xã H, huyện V, tỉnh T; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 11/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông: Trịnh Văn D (đã chết) và bà: Cao Thị L (sinh năm 1974); chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 16/5/2020, tạm giam ngày 18/5/2020; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nghiện ma túy nên khoảng 15 giờ ngày 16/5/2020, Trịnh Văn T nảy sinh ý định mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Lúc này, T điều khiển xe máy BKS 16L9-5817 đi đến khu vực ngã tư Bùi Thị Từ Nhiên – Phủ Thượng Đoạn, phường Đông Hải 1, quận Hải An, thành phố Hải Phòng tìm mua ma túy. Tại đây, T gặp và mua của 01 người phụ nữ không quen biết khoảng 50 tuổi 02 gói ma túy heroine, kích thước mỗi gói khoảng 01 x 02 cm với giá 200.000 đồng. Mua xong, T cầm trong lòng bàn tay phải và đi tìm nơi sử dụng. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, khi đi đến trước cửa nhà số 295 đường Đà Nẵng, phường Vạn Mỹ, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, T bị Công an quận Ngô Quyền bắt quả tang. Cơ quan Công an thu giữ trong lòng bàn tay phải của T 02 gói giấy màu trắng, mỗi gói kích thước 01x02cm, bên trong chứa chất bột màu trắng.

Kết luận giám định số 272/KLGĐ-MT ngày 18/5/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng, kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Trịnh Văn T gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,15 gam, là loại Heroine.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 phong bì niêm phong số 272/2020/PC09 là ma túy còn lại sau giám định cần chuyển Chi cục thi hành án dân sự quận Ngô Quyền bảo quản chờ xử lý; 01 xe moto nhãn hiệu SUZUKI VIVA BKS 16L9-5817, qua xác minh, đây là T sản do bà Cao Thị L, sinh năm: 1974, nơi cư trú: Thôn N, xã H, huyện V, tỉnh T là mẹ đẻ Trịnh Văn T mua và trực tiếp quản lý, sử dụng. Bà L không biết việc T lấy xe đi mua ma túy. Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền đã ra quyết định xử lý vật chứng số 33 ngày 22/7/2020, trả lại xe máy trên cho bà L.

Quá trình điều tra vụ án, bị cáo Trịnh Văn T khai nhận nội dung như nêu trên, phù hợp với lời khai của người chứng kiến và các T liệu khác có trong hồ sơ.

Tại Bản Cáo trạng số 85/CT-VKSNQ ngày 27/8/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Trịnh Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà bị cáo Trịnh Văn T khai nhận toàn bộ nội dung vụ án như cáo trạng đã truy tố. Bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xử mức án thấp nhất.

Kim sát viên tại phiên toà giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt: Bị cáo Trinh Văn T với mức án từ 18 đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; không đề nghị hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo không có T sản và thu nhập; Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chứa ma túy còn lại sau giám định. Về án phí: Bị cáo Trịnh Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

- Về căn cứ xác định tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo:

[2] Lời khai bị cáo Trịnh Văn T tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ được, Kết luận giám định 272/KLGĐ- MT ngày 18/5/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng và các T liệu khác có trong hồ sơ vụ án, khẳng định: Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 16/5/2020, tại trước cửa nhà số 295 đường Đà Nẵng, phường Vạn Mỹ, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Trịnh Văn T bị bắt quả tang khi cất giữ trái phép 0,15 gam Heroin trong lòng bàn tay phải, mục đích để sử dụng cho bản thân.

[3] Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trịnh Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[4] Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là đúng theo quy định của pháp luật.

- Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo:

[5] Mặc dù nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về cất giữ các chất ma túy, làm suy giảm sức khỏe con người và gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội do đó cần phải có hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[6] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do vậy Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Về hình phạt bổ sung:

[8] Bị cáo không có T sản và thu nhập ổn định nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự - Về xử lý vật chứng:

[9] 01 bì thư niêm phong số 272/2020/PC09 của phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng chứa số ma túy còn lại sau giám định. Xét đây là những vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[10] Đối với người phụ nữ bán ma túy cho T, chưa xác minh được căn cước lai lịch. Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ có căn cứ sẽ xử lý sau.

[11] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[12] Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Trịnh Văn T 18 (mười tám) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Thời hạn tù tính từ ngày 16/5/2020.

Về việc xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sư; căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 272/2020/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng chứa ma túy còn lại sau giám định (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/8/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền).

Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Trịnh Văn T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 87/2020/HS-ST ngày 11/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:87/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về