Bản án 87/2017/HS-ST ngày 04/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 87/2017/HS-ST NGÀY 04/11/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 11 năm 2017, tại Trụ sở Nhà Văn hóa ấp PĐ B, xã PĐ, huyện GD, tỉnh TN, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 75/2017/HSST ngày 09 tháng 10 năm 2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 84/2017/QĐXXST-HS ngày 24-10-2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn P; sinh năm 1992; tại huyện TB, tỉnh TN; nơi đăng ký nhân khẩu và nơi cư trú: Ấp CX, xã HT, huyện TB, tỉnh TN; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 6/12; con ông Nguyễn Tấn T; mẹ không biết; vợ, con: chưa có; tiền sự, tiền án: Không có; tạm giữ, tạm giam từ ngày 31-8-2017. Bị cáo có mặt.

- Người bị hại: Chị Phạm Thị Phương L; sinh năm: 1981, (vắng mặt). Địa chỉ cư trú: Ấp LT, xã GL, huyện TB, tỉnh TN.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Nguyễn Văn P bị Viện kiểm sát nhân dân huyện GD truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Nguyễn Văn P làm việc tại kho của Công ty Hvn trong Khu Công nghiệp PĐ - BL thuộc xã PĐ, huyện GD, tỉnh TN, P thường đến phòng làm việc của chị Phạm Thị Phương L là nhân viên quản lý kho của Công ty Hvn để lấy bảng chấm công, nên P thấy chị L thường để túi xách dưới bàn làm việc để đi ăn cơm vào buổi trưa mà không khóa cửa phòng, nên P nảy sinh ý định lấy trộm tiền của chị L để đánh bạc và tiêu xài. Từ ngày 23-8-2017 đến ngày 30-8-2017, P lén lút đột nhập vào phòng làm việc của chị L 07 lần lấy trộm được tổng cộng 12.350.000 đồng, cụ thể: ngày 23-8-2017 lấy 3.000.000 đồng, ngày 24-8-2017 lấy 2.000.000 đồng, ngày 24- 8-2017 lấy 1.500.000 đồng, ngày 26-8-2017 lấy 2.000.000 đồng, ngày 27-8-2017 lấy 1.500.000 đồng, ngày 28-8-2017 lấy 2.000.000 đồng, ngày 30-8-2017 lấy 350.000 đồng. Số tiền trên P đánh bạc thua, còn lại 8.640.000 đồng thì bị thu giữ.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 túi xách bằng vải màu nâu, 01 túi xách bằng da màu nâu đỏ, 01 cái ví bằng vải màu đỏ, 01 bao lì xì bằng giấy màu vàng và 8.640.000 đồng, đã trả lại cho chị L;

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280, sim số 0908780615 của bị cáo.

Về bồi thường thiệt hại: Gia đình của P đã bồi thường cho chị L 3.710.000 đồng nên chị L làm đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho P.

Tại bản Cáo trạng số: 83/QĐ/KSĐT ngày 06-10-2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện GD, đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn P về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện GD, trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, h, p khoản 1, 2 Điều 46, điểm g khoản 1 điều 48 - Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Văn P từ 09 - 12 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 41- Bộ luật Hình sự và Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự, xử lý vật chứng theo quy định.

Bị cáo nói lời sau cùng: Rất ăn năn hối cải, nên xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện GD trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Do bị cáo P có tính tham lam, nên khi thấy chị L đi ăn cơm trưa để túi xách dưới bàn làm việc mà không khóa cửa phòng, nên P nảy sinh ý định lấy trộm tiền của chị L để đánh bạc và tiêu xài. Từ ngày 23-8-2017 đến ngày 30-8-2017, P lén lút đột nhập vào phòng làm việc của chị L 07 lần lấy trộm được tổng cộng 12.350.000 đồng, trong đó có 04 lần số tiền từ 2.000.000 đồng trở lên.

Tại phiên toà hôm nay bị cáo Nguyễn Văn P thừa nhận hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với cáo trạng truy tố, lời luận tội của Kiểm sát viên, lời khai của bị hại và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ. Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn P xét thấy có đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự như luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Nguyên nhân dẫn đến phạm tội là do bị cáo có tính tham lam ích kỹ cá nhân, không chịu lao động lương thiện để sinh sống, mà lại muốn hưởng thụ trên công sức lao động của người khác, bất chấp pháp luật nên dẫn bị cáo đến con đường phạm tội. Do đó cần phải xử nghiêm để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giãm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Tình tiết tăng nặng: Là phạm tội nhiều lần, theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải; khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và chị L làm đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho P. Đây là những tình tiết để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, h, p khoản 1, 2 Điều 46 - Bộ luật Hình sự.

[4] Về xử lý vật chứng:

- 01 túi xách bằng vải màu nâu, 01 túi xách bằng da màu nâu đỏ, 01 cái ví bằng vải màu đỏ, 01 bao lì xì bằng giấy màu vàng và 8.640.000 đồng, đã trả lại cho chị L xong;

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280, sim số 0908780615 của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo là phù hợp.

Về bồi thường thiệt hại: Ghi nhận gia đình của P đã bồi thường cho chị L 3.710.000 đồng xong.

[5] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên .

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn P phạm tội: “Trộm cắp tài sản”

- Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, h, p khoản 1, 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 - Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn P 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31-8-2017.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 - Bộ luật Hình sự và Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trả lại cho chị L 01 túi xách bằng vải màu nâu, 01 túi xách bằng da màu nâu đỏ, 01 cái ví bằng vải màu đỏ, 01 bao lì xì bằng giấy màu vàng và 8.640.000 đồng xong

Trả lại cho bị cáo P 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280, sim số 0908780615. (Vật chứng hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện GD đang quản lý).

Về bồi thường thiệt hại: Ghi nhận gia đình của P đã bồi thường cho chị L 3.710.000 đồng xong.

- Án phí: Áp dụng Điều 98 và 99 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Nguyễn Văn P phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án hình sự sơ thẩm xử công khai, bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh TN trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

386
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 87/2017/HS-ST ngày 04/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:87/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về