Bản án 86/2020/HS-ST ngày 01/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy  

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 86/2020/HS-ST NGÀY 01/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 89/2020/HSST ngày 19 tháng 8 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 90/2020/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đình T1, sinh năm 1991; Trú tại: Bản P2, xã N, huyện S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Nguyễn Đình H và bà Trần Thị E; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Không, tiền sự: Ngày 28/8/2019 bị Công an huyện Sông Mã xử phạt 1.500.000đ về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ 09/5/2020 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 11 giờ 50 phút, ngày 09/5/2020 tổ công tác Công an thị trấn M, huyện S phối hợp với Công an xã N, huyện S làm nhiệm vụ tại khu vực bản G, xã N phát hiện bắt quả tang Nguyễn Đình T1, Nguyễn Văn D (trú tại bản L, xã N) và Đỗ Minh B (trú tại bản C, xã N) đang có hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý tại phòng nghỉ trong khách sạn V. Vật chứng thu giữ là 01 mảnh giấy bạc dính viên nén màu hồng bị cháy xém, Nguyễn Đình T1 và Nguyễn Văn D khai nhận là hồng phiến. Tổ công tác T1 hành lập biên bản phạm tội quả tang đối với Nguyễn Văn D và Nguyễn Đình T1, thu giữ một mảnh giấy bạc có dính viên nén màu hồng đã bị cháy xém, 01 tẩu tự chế và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung của T1.

Cùng ngày tại Công an huyện S, tỉnh Sơn La, Hội đồng bóc mở niêm phong T1 hành cân tịnh và trích mẫu giám định, kết quả: mảnh viên nén màu hồng thu giữ của T1 và Nguyễn Văn D có khối lượng là 0,05 gam đã sử dụng hết để làm mẫu gửi giám định ký hiệu T.

Bản kết luận giám định số 753 ngày 15/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,05gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,05gam; Loại Methamphetamine”.

Quá trình điều tra đối tượng Nguyễn Văn D và bị cáo Nguyễn Đình T1 khai nhận: Tối ngày 08/5/2020 T1 và Nguyễn Văn D (là bạn của T1) ngủ cùng phòng tại khách sạn V. Đến khoảng 06 giờ ngày 09/5/2020 sau khi ngủ dậy thì D nói còn 100.000VNĐ và rủ T1 góp tiền để đi mua hồng phiến về sử dụng, T1 đồng ý và đưa cho D 100.000VNĐ, D nhận tiền và đi lên bản R, xã M1 vào nhà một người đàn ông dân tộc Mông tên A hỏi mua hồng phiến với số tiền 200.000VNĐ, thì được người đàn ông dân tộc Mông này bán cho 04 viên hồng phiến, mua được hồng phiến D đã lấy 02 viên ra sử dụng ngay tại nhà của A bằng hình thức đốt hít, đến gần trưa thì D đem theo 02 viên hồng phiến về khách sạn V gặp T1. Đối với T1, sau khi Nguyễn Văn D cầm tiền nói đi mua ma tuý thì T1 gọi điện cho Đỗ Minh B nhờ B mua đồ ăn sáng đem đến cho. Khoảng 15 phút sau thì Đỗ Minh B đem đồ ăn đến và ở lại chơi cùng T1, đến 11 giờ 30 phút cùng ngày thì Nguyễn Văn D về phòng nghỉ. Tại đây Nguyễn Văn D lấy ra 01 gói nilon màu xanh chứa hai viên hồng phiến rồi đi lấy vỏ chai nước chế thành tẩu để hút hồng phiến cùng T1 và Đỗ Minh B. Khi cả ba người đang sử dụng hồng phiến thì bị phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng nêu trên.

Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 89/CT-VKSSM ngày 18 tháng 8 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Nguyễn Đình T1 về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Ti phiên toà kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Đình T1 từ 16 - 22 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung. Về vật chứng: tiêu huỷ số ma tuý còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định cùng phong bì niêm phong, tẩu tự chế, mảnh giấy bạc, trả lại điện thoại di động cho bị cáo. Miễn án phí hình sự sơ thẩm, tuyên quyền kháng cáo.

Tại phiên tòa khi được nói lời sau cùng bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người T1 hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan T1 hành tố tụng, người T1 hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan T1 hành tố tụng, người T1 hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 12 giờ 00 phút, ngày 09/5/2020 đối với Nguyễn Văn D, Nguyễn Đình T1 đang có hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý.

- Vật chứng bị thu giữ là 01 mảnh giấy bạc dính mảnh viên nén màu hồng bị cháy xém; Kết luận giám định số 753 ngày 15/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận mảnh viên nén màu hồng thu giữ là ma túy “... Loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,05gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,05gam; Loại Methamphetamine”.

- Lời khai bị cáo Nguyễn Đình T1 về việc đã sử dụng ma tuý từ tháng 4/2019 nên ngày 09/5/2020 tại phòng nghỉ 307 của Khách sạn V có góp 100.00VNĐ với Nguyễn Văn D để mua ma tuý về sử dụng. Khi đang sử dụng cùng Nguyễn Văn D, Đỗ Minh B thì bị bắt quả tang.

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 008210 ngày 28/8/2019 của Công an huyện Sông Mã đối với Nguyễn Đình T1 về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Lời khai nhận tội của bị cáo về thời gian địa điểm, diễn biến của hành vi phạm tội tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của Nguyễn Văn D, Đỗ Minh B và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo không có thay đổi, bổ sung gì về lời khai làm thay đổi nội dung vụ án. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.

Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng quy định của pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 09/5/2020 bị cáo đã có hành vi tàng trữ 0,05 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ, tuy khối lượng ma tuý chưa đủ truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý chưa được xoá tiền sự nên đây là tình tiết định tội đối với bị cáo Nguyễn Đình T1. Như vậy, hành vi bị cáo thực hiện đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, bị cáo nhận thức được việc tàng trữ chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng đã bất chấp pháp luật cố tình thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây bức xúc trong xã hội.

[4] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên toà và tại cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Vì vậy, cần có một mức án tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội nhằm giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, và cũng đảm bảo biện pháp răn đe, phòng ngừa chung, thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[5] Về hình phạt bổ sung: Cơ quan điều tra đã làm rõ bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, không có tài sản gì có giá trị vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vấn đề khác có liên quan trong vụ án:

Đi với Nguyễn Văn D là người rủ Nguyễn Đình T1 góp tiền và trực tiếp đi mua ma túy về để sử dụng, tuy nhiên do khối lượng ma túy bị thu giữ không đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Bản thân Nguyễn Văn D chưa có tiền án, tiền sự, vì vậy hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của D không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên ngày 22/7/2020 Công an huyện Sông Mã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là có căn cứ.

Đi với Đỗ Minh D là người đã cùng sử dụng trái phép chất ma túy cùng với Nguyễn Văn D và Nguyễn Đình T1, tuy nhiên Đỗ Minh B không được góp tiền để mua ma túy nên không đồng phạm với Nguyễn Đình T1 về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 22/7/2020 Công an huyện Sông Mã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Đỗ Minh B về hành vi sử dụng trái pháp chất ma túy là có căn cứ.

Đi với người đàn ông dân tộc Mông tên A ở bản R, xã M1, S mà Nguyễn Văn D khai đã bán ma tuý cho D. Quá trình điều tra, xác minh xác định tại bản R, xã M1 có một người tên Giàng Bả A – sinh năm 1991, ngày 20/9/2017 A bị UBND xã M1 lập hồ sơ đưa đi cai nghiện đến ngày 05/01/2018 A đã bỏ trốn khỏi cơ sở điều trị cai nghiện ma túy, gia đình và chính quyền địa phương không biết A đang ở đâu nên không hành ghi lời khai được. Do đó, ngoài lời khai của Nguyễn Văn D không có tài liệu chứng cứ chứng minh nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là của Giàng Bả A nên cơ quan CSĐT Công an huyện Sông Mã không có căn cứ để xác minh, điều tra xử lý.

[7] Về vật chứng vụ án: Đối với phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, cùng mảnh nilon, 01 mảnh giấy bạc, 01 tẩu tự chế và số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định là những vật không có giá trị sử dụng và cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại.

[8] Về án phí: Gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo nên được miễn án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1- Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình T1 phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình T1 14 (mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/5/2020.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2- Về vật chứng vụ án: Căn cứ các điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Các điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 mảnh túi ni lon màu trắng, 01 mảnh giấy bạc, 01 vỏ phong bì thư niêm phong ban đầu đã bóc mở được đựng trong 01 (một) phong bì thư do bưu điện Việt Nam phát hành đã niêm phong, dán kín theo đúng quy định của pháp luật. Mặt sau phong bì có dán giấy niêm phong có mã số 027560, trên giấy niêm phong được đóng 2 dấu đỏ của Cơ quan CSĐT công an huyện Sông Mã.

+ 0,03 gam Methamphetamine cùng 01 phong bì niêm phong cũ được đựng trong 01 phong bì màu trắng của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La được niêm phong, dán kín theo đúng quy định của pháp luật. Mặt sau phong bì có dán giấy niêm phong có mã số 000376, trên giấy niêm phong được đóng 2 dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La.

+ 01 tẩu tự chế bằng chai nhựa để sử dụng hồng phiến.

- Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu vàng đồng.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/82020 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3- Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 01/9/2020). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 86/2020/HS-ST ngày 01/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy  

Số hiệu:86/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về