Bản án 86/2019/HSST ngày 25/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TH, TỈNH TH

BẢN ÁN 86/2019/HSST NGÀY 25/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 3 năm 2019, tại hội trường Tòa án nhân dân thành phố TH, tỉnh TH xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số101/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 101/2019/QĐXXST-HS ngày 04/3/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn B, tên gọi khác: Không, sinh năm 1958 tại H; Giới tính: Nam; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Xóm T, xã HT, huyện Đ, tỉnh TH; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 09/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Con ông Nguyễn Văn N (đã chết) và con bà Phạm Thị T (đã chết); Bị cáo có vợ Phạm Thị Đ, sinh năm 1960; có 03 con, con lớn sinh năm 1982, con nhỏ sinh năm 1992;Tiền án: Không; Tiền sự: Tại Quyết định số 22/2018/QĐ-TA ngày 15/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh TH áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Nguyễn Văn B trong thời hạn 24 tháng.

Nhân thân: Tại Quyết định số 693/QĐ-UBND ngày 17/5/2010 của Ủy ban nhân dân huyện Đ về việc đưa Nguyễn Văn B vào Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục – Lao động – Xã hội TH thời hạn 12 tháng.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH từ ngày 01/12/2018 đến nay.

( Có mặt tại phiên tòa).

* Người chứng kiến: Ông Trần Thanh L, sinh năm 1959 Địa chỉ: Tổ X, phường C, thành phố TH (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hôi 10 giờ ngày 01/12/2018, tổ công tác Công an phường C, thành phố TH làm nhiệm vụ tại khu vực tổ Y, phường C, thành phố TH phát hiện 01người nam giới có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, người nam giới tự khai là Nguyễn Văn B. Qua kiểm tra tại túi quần dài phía trước bên phải B đang mặc có 02 gói nhỏ (01 gói giấy bạc màu vàng, 01 gói giấy bạc màu trắng), bên trong mỗi gói chứa chất bột màu trắng, B khai là Hêrôin của B.Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với B, niêm phong vật chứng theo quy định.

Cùng ngày tiến hành cân xác định trọng lượng số chât bôt màu trắng thu giữ của B có trọng lượng 0,132 gam.

Tại bản Kết luận giám định số 83/KL-PC09 ngày 09/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH kết luận: Số chất bôt màu trắ ng thu giữ của B ngày 01/12/2018 là chất ma túy, loại Heroine.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn B khai nhận: Khoảng 09 giơ 30 phút, ngày 01/12/2018, B đi xe ôm của một người không quen biết từ nhà đến khu vực đầu cầu G thuộc phường Đ, thành phố TH để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Đến nơi, B bảo người lái xe ôm đợi ở ngoài rồi B đi bộ vào trong ngõ khoảng 40m thì gặp một người đàn ông không quen biết, B đã mua của người đàn ông này 01 gói Heroine với giá 200.000 đồng, mua xong B chia ra làm 02 gói nhỏ (01gói được gói bằng giấy bạc màu vàng, 01gói được gói bằng giấy bạc màu trắng), sau đó B cất 02 gói Heroine vào túi quần phía trước bên phải đang mặc rồi B đi ra chỗ xe ôm đang chờ để đi về nhà. Khi đi đến khu vực đường tròn C, thành phố TH, B trả tiền xe ôm hết 30.000 đồng rồi xuống xe để tìm chỗ sử dụng ma túy, tuy nhiên chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Tại bản cáo trạng số 106/CT-VKSTPTN ngày 22/02/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn B về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay Nguyễn Văn B khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Trong lời luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 bộ luật hình sự; Xử phạt Nguyễn Văn B từ 18 đến 24 tháng tù giam.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu B (Bì niêm phong chứa chất ma túy) Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội.

Phần lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an, cơ quan Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên thành phố TH trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án.Với chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận:

Hôi 10 giờ 15 phút ngày 01/12/2018, tại tô Y phường C, thành phố TH, Nguyễn Văn B có hành vi tàng trữ 0,132 gam Heroine để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường C, thành phố TH phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.

Hành vi trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a, b c, Heroine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05gam.

Vin kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma túy hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, gây mất an ninh trật tự tại địa phươngxâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước.Việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết để răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51; Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS. Bị cáo có nhân thân xấu đã từng được đưa đi cai nghiện bắt buộc, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để từ bỏ ma túy. Xét tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của và nhân thân của bị cáo cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng, cách ly xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân tốt và có ích cho xã hội.

Mức án mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, lẽ ra bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS, nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không nghề nghiệp, mua ma túy về sử dụng không mang tính chất vụ lợi. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu huỷ 01 bì niêm phong ký hiệu B.

[7] Án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[8] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, B khai mua của một người đàn ông không quen biết, do không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đi với người lái xe ôm chở B đi mua ma túy, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này, bản thân B khi đi xe ôm cũng không nói cho người này biết đi đâu nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 326 bộ luật tố tụng hình sự

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249,điểm s khoản 1Điều 51, Điều 38 BLHS. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn B 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 01/12/2018.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo Nguyễn Văn B 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ: 01 bì niêm phong ký hiệu B(Bì niêm phong chứa chất ma túy)

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận số 168 ngày 25/02/2019giữa Công an thành phố TH với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TH)

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016, buộc bị cáo Nguyễn Văn B phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào Ngân sách nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 86/2019/HSST ngày 25/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:86/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về