Bản án 85/2017/HSST ngày 28/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH HÀ, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 85/2017/HSST NGÀY 28/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28-9-2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 83/2017/HSST ngày 15-9-2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 89/2017/HSST- QĐ ngày 15- 9-2017 đối với bị cáo:

PHẠM ĐỨC T, sinh năm 1989, Nơi đăng ký Hộ khẩu thường trú: phường P, thành phố H, tỉnh Hải Dương.

Nơi cư trú: thôn C, xã V, huyện T, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 11/12; con ông Phạm Đắc A, sinh năm 1961 và bà Nguyễn Thị U, sinh năm 1968; tiền sự: chưa, tiền án: Bản án số 66/2017/HSST ngày 25/4/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương xử phạt 28 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bị cáo bị bắt giam từ ngày 08-6-2017 tại Trại tạm giam Kim Chi - Công an tỉnh Hải Dương theo quyết định thi hành án số 37/2017 ngày 5-6-2017 về tội Trộm cắp tài sản. Có mặt.

- Người bị hại:

1. Anh Phạm Tuấn L, sinh năm 1982 (Có mặt) Trú tại: thôn Đ, xã A, huyện T, tỉnh Hải Dương

2. Chị Đào Thị H, sinh năm 1979 (vắng mặt) Trú tại: thôn C, xã I, huyện T, tỉnh Hải Dương

- Người làm chứng: Đều vắng mặt.

1. Ông Nguyễn Bá C, sinh năm 1948

Trú tại: xóm M, xã H, huyện T, tỉnh Hải Dương.

2. Anh Phạm Văn H, sinh năm 1986

Trú tại: đường Nguyễn Thị D, phường B, thành phố H, tỉnh Hải Dương

3. Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1985

Trú tại: đường V, phường B, thành phố H tỉnh Hải Dương.

4. Ông Nguyễn Đức C, sinh năm 1960

Trú tại: thôn C, xã V, huyện T, tỉnh Hải Dương.

5. Ông Phạm Đắc A, sinh năm 1961

Trú tại: thôn C, xã V, huyện T, tỉnh Hải Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hành vi thứ nhất: Khoảng 11 giờ ngày 28/5/2017, T điều khiển xe máy nhãn hiệu ORIENTAL, biển số 34L6-4901(của ông Nguyễn Đình C) trên đường 390 mục đích tìm tài sản sơ hở để trộm cắp, khi đến khu vực chợ N, xã A, huyện T, tỉnh Hải Dương, T phát hiện thấy cửa hàng bán sơn của anh Phạm Tuấn L sinh năm 1982, cửa mở không có người trông giữ, T dựng xe máy ở dìa đường rồi đi vào bên trong cửa hàng, thấy có 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu TOSHIBA đang cắm sạc pin để trên bàn, T rút sạc pin, cầm chuột máy tính đặt trên bàn phím rồi bê máy tính, cùng chuột ra ngoài để võng xe, sau đó điều khiển xe và tài sản trộm cắp được đến cửa hàng sửa chữa máy tính của anh Phạm Văn H, sinh năm 1986; địa chỉ: đường Nguyễn Thị D, phường B, thành phố H bán được 400.000đ.

Hành vi thứ hai: Khoảng 16 giờ ngày 05/6/2017, Phạm Đức T điều khiển xe máy nhãn hiệu ORIENTAL, biển số 34L6-4901 từ thành phố H về huyện T mục đích chiếm đoạt tài sản. Khi đến cửa hàng điện tử, điện lạnh Kiên Thu của chị Đào Thị H, sinh năm 1979; địa chỉ: thôn C, xã I, huyện T, tỉnh Hải Dương thấy cửa mở, không có người trông giữ, T dựng xe máy trên vỉa hè rồi đi vào trong cửa hàng, T bê 01 hộp caton bên ngoài ghi chữa DAIKIN bên trong đựng cục nóng điều hòa ra chỗ để xe rồi điều khiển đến quán bán nước của ông Nguyễn Bá C, sinh năm 1948 ở xóm M, xã H, huyện T, tỉnh Hải Dương gửi tại quán. Sáng 06/6/2017 T đến lấy và chở đến bán cho anh Nguyễn Văn N, sinh năm1985; địa chỉ: đường V, phường B, thành phố H được 2.000.000đ.

Tang vật thu giữ gồm: 01 máy tính xách tay nhãn hiệu TOSHIBA, 01 hộp catton bên trong đựng cục nóng điều hòa DAIKIN, cơ quan điều tra đã trả lại chị Đào Thị H và anh Phạm Tuấn L, chị H, anh L tự nguyện không yêu cầu bồi thường.

Các anh Nguyễn Văn N, Nguyễn Văn H tự nguyện không yêu cầu Phạm Đức T hoàn trả số tiền do mua bán tài sản mà có.

Tại kết luận định giá tài sản số 23-24/KL-HĐGTS ngày 15-6-2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương kết luận: Chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu TOSHIBA loại máy L310PSME6L019001 màn hình 14 inch trị giá 1.000.000đ; cục nóng của điều hòa hiệu DAIKIN FTKC/RKC35QVMV trị giá 7.800.000đ.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Phạm Đức T không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận định giá tài sản, bị cáo khai nhận đã thực hiện hai hành vi trộm cắp tài sản đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố.

Bị hại anh Phạm Tuấn L trình bày anh đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường và đề nghị xử nghiêm đối với bị cáo

Tại Cáo trạng số 92/CT-VKS ngày 14-9-2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Hà truy tố Phạm Đức T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Hà giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Phạm Đức T đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm g khoản 1 Điều 48, điểm p khoản 1, 2 Điều 46; Điều 33; Khoản 2 điều 51; điểm b khoản 1 điều 41 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 điều 76 Bộ Luật tố tụng hình sự để xử phạt bị cáo Phạm Đức T từ 12 đến 15 tháng tù. Tổng hợp với bản án số 66/2017/HSST ngày 25/4/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, T phải chấp hành từ 40 đến 43 tháng tù. Hình phạt bổ sung: không áp dụng. Vật chứng: Truy thu của T 2.400.000đ sung quỹ nhà nước. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí Tòa án năm 2015: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Căn cứ vào lời khai của bị cáo Phạm Đức T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người bị hại, người làm chứng, biên bản nhận dạng, kết luận định giá và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ ngày 28/5/2017 tại cửa hàng sơn của anh Phạm Tuấn L, địa chỉ: thôn Đ, xã A, huyện T tỉnh Hải Dương, Phạm Đức T lén lút chiếm đoạt 01 máy tính xách tay TOSHIBA trị giá 1.000.000đ. Khoảng 16 giờ ngày 05/6/2017 tại cửa hàng điện tử, điện lạnh Kiên Thu của chị Đào Thị H ở thôn C, xã I, huyện T, tỉnh Hải Dương, Phạm Đức T đã lén lút chiếm đoạt 01 cục nóng điều hòa nhãn hiệu DAIKIN trị giá 7.800.000đ.

Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi lợi dụng sở hở lén lút chiếm đoạt tài sản là vi phạm pháp luật. Vì mục đích vụ lợi đã cố ý thực hiện tội phạm. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “ Trộm cắp tài sản ” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Hà truy tố bị cáo về tội danh, điều luật như trên là đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây tâm lý hoang mang trong nhân dân. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung, cũng như đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng và chống loại tội phạm này.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bản án số 66/2017/HSST ngày25-4-2017 của Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương xử phạt 28 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản có hiệu lực pháp luật ngày 25-5-2017. Ngày 05-6-2017 bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trên 2.000.000đ nên phải chịu tình tiết tăng nặng tái phạm Ngày 28-5-2017 bị cáo trộm cắp tài sản máy tính xách tay của anh Phạm Tuấn L trị giá 1.000.000đ cộng với tiền án (xét xử ngày 25/4/2017) đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp nên bị cáo bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội nhiều lần theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p, khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Bị cáo được triệu tập để khai báo về hai hành vi trộm cắp nên chưa đủ căn cứ xác định bị cáo đầu thú.

Bị cáo đang trong thời gian chờ thủ tục chấp hành bản án số 66 ngày 25/4/2017 của Tòa án thành phố Hải Dương lại phạm tội mới nên hình phạt của bản án này sẽ được tổng hợp với hình phạt của bản án số 66/2017 để buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 2 bản án theo khoản 2 điều 51 BLHS

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản, không có thu nhập. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng gồm: 01 máy tính xách tay nhãn hiệu TOSHIBA, 01 hộp catton bên trong đựng cục nóng điều hòa DAIKIN, cơ quan điều tra đã trả lại chị Đào Thị H và anh Phạm Tuấn L, chị H, anh L tự nguyện không yêu cầu bồi thường. Hội đồng xét xử không giải quyết. 01 xe máy nhãn hiệu ORIENTAL, biển số 34L6-4901 bị cáo sử dụng làm phương tiện thực hiện tội phạm có nguồn gốc đăng ký sở hữu Nguyễn Thị H; địa chỉ: xã N, huyện S, tỉnh Hải Dương đã bán cho ông Nguyễn Đình C, ông C cho bị cáo T mượn, không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện thực hiện tội phạm. Cơ quan điều tra đã giao trả cho ông C đảm bảo đúng pháp luật.

Số tiền 400.000đ do bán máy tính cho anh N và 2.000.000đ do bán cục nóng điều hòa cho anh H là tiền thu lợi bất chính, các anh N, H tự nguyện không yêu cầu lấy lại. Cần truy thu của bị cáo sung quỹ nhà nước.

Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự, Luật phí và lệ phí năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Đức T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: khoản 1 Điều 138, điểm g khoản 1 Điều 48, điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33; Khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Đức T 18(mười tám) tháng tù. Tổng hợp với 28 tháng tù của bản án số 66/2017/HSST ngày 25/4/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, T phải chấp hành hình phạt của hai bản án 46 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày thi hành án 08-06-2017.

2. Vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 1 điều 41 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 điều 76 BLTTHS Truy thu của Phạm Đức T 2.400.000đ sung quỹ nhà nước.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người phải thi hành án chậm thi hành thì phải trả lãi đối với số tiền chậm nộp tương ứng với thời gian chậm nộp. Lãi suất phát sinh do chậm nộp tiền được xác định theo khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016: Buộc bị cáo Phạm Đức T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 85/2017/HSST ngày 28/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:85/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Hà - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về