Bản án 85/2017/HSST ngày 18/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 85/2017/HSST NGÀY 18/07/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18/7/2017 tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh mở phiên toà công khai để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 65/2017/HSST ngày 02/6/2017, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/HSST-QĐ ngày 04/7/2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn Th, sinh năm 1991.

HKTT: Xóm D, xã K, huyện Đ, tỉnh  Thái Nguyên. Nơi cư trú: Xóm D, xã K, huyện Đ, Thái Nguyên.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ học vấn: 08/12; bố đẻ: Trần Văn T (đã chết); mẹ đẻ: Vũ Thị Th, sinh năm 1958;gia đình có 06 anh em, bị cáo là con thứ tư; vợ, con: Chưa có.

Tiền án; tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/3/2017 đến nay, tại Trại tạm Công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 11/3/2017, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, lực lượng Công an huyện Y phối hợp với Công an thị trấn Ch đã đến quán cà phê Chất ở thị trấn Ch, huyện Y kiểm tra và thu giữ tại túi ngực phía trong bên trái áo khoác của Trần Văn Th đang mặc 01 bao thuốc lá nhãn hiệu Hero bên trong có 01 túi nilon chứa chất dạng tinh thể màu trắng và 06 điếu thuốc lá Hero, Th khai đó là ma túy “đá” do H đưa cho để sử dụng. Lực lượng công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và trưng cầu giám định đối với chất dạng tinh thể màu trắng chứa trong túi nilon.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 bao thuốc lá nhãn hiệu Hero bên trong có 01 túi nilon chứa chất dạng tinh thể màu trắng và 06 điếu thuốc lá Hero.

Tại bản kết luận số 423/KLGĐ - PC54 ngày 12/3/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Các hạt tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon màu trắng có trọng lượng 1,8203 gam là ma túy; loại chất Methamphetamine.

Tại phiên toà, Trần Văn Th thừa nhận cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố hành vi phạm tội của bị cáo là đúng và khai nhận: Th sử dụng ma túy “đá” từ năm 2016. Khoảng 19 giờ ngày 11/3/2017, khi Th đang ngồi chơi điện tử tại thôn B, xã Đ, huyện Y thì gặp H ở thị trấn Ch, huyện Y, H rủ Th ra thị xã T mua ma túy “đá” về sử dụng, Th đồng ý. H chở Th bằng xe mô tô của H, khi đến dốc đường tầu ở thị xã T thì H bảo Th đứng chờ để H đi mua ma túy. Khoảng 05 phút sau H quay lại bảo Th đưa cho H mượn bao thuốc lá nhãn hiệu Hero của Th để H cho ma túy vào đó rồi H bảo Th điều khiển xe mô tô chở H về thị trấn Ch, huyện Y để sử dụng ma túy. Khi về đến quán cà phê Chất thì H đưa cho Th bao thuốc lá Hero bên trong có đựng ma túy và bảo Th đợi để H đi đón bạn về cùng sử dụng, Th cầm bao thuốc lá H đưa, cho vào túi ngực áo khoác phía trong bên trái Th đang mặc. Khi Th đang đứng đợi H thì bị lực lượng công an kiểm tra, thu giữ tại túi ngực áo khoác phía trong bên trái Th đang mặc 01 bao thuốc lá nhãn hiệu Hero bên trong có 01 túi nilon chứa chất dạng tinh thể màu trắng và 06 điếu thuốc lá Hero.

Anh Nguyễn Chí Th và anh Chu Văn H – Người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng theo lời khai tại cơ quan điều tra (CQĐT) có trong hồ sơ thể hiện: Khoảng hơn 21 giờ ngày 11/3/2017, anh Chí Th, anh T và anh Chu Văn H đang ngồi uống cà phê tại quán cà phê Chất ở thị trấn Ch thì lực lượng công an tiến hành kiểm tra Trần Văn Th và thấy lực lượng công an thu giữ tại túi áo khoác bên trái phía trong Th đang mặc 01 bao thuốc lá Hero bên trong có 06 điếu thuốc lá Hero và 01 túi nilon màu trắng bên trong có các hạt tinh thể màu trắng, Th khai đó là ma túy “đá” H mới đưa cho để sử dụng. Lực lượng công an đã niêm phong túi nilon đó và đưa Th về trụ sở giải quyết.

Tại bản cáo trạng số 64/CTr VKS ngày 31/5/2017 của Viện trưởng VKSND huyện Y, tỉnh B đã truy tố Trần Văn Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999 và khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.

Cũng tại phiên toà hôm nay đại diện VKSND huyện Y thực hành quyền công tố tại phiên tòa khẳng định: Vào khoảng 21 giờ 15 phút ngày 11/3/2017, tại quán cà phê Chất ở thị trấn Ch, Trần Văn Th đã có hành vi cất giữ trái phép 1,8203gam Methamphetamine để sử dụng nên đã giữ nguyên nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố Trần Văn Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Sau khi phân tích tính chất của vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo đã đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33; Điều 41 BLHS năm 1999. Nghị quyết 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết 144/2016/QH13 ngày29/6/2016 của Quốc hội; Khoản 3 Điều 7 và khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên phạt bị cáo Trần Văn Th với mức án từ 20-24 tháng tù. Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu huỷ số ma tuý còn lại sau giám định và 06 điếu thuốc lá Hero.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất ân hận về việc làm của mình nên xin HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với gia đình.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra taị phiên toà, phù hợp với kết quả tranh luận tại phiên toà thể hiện: Khoảng 21 giờ 15 phút ngày 11/3/2017 tại quán cà phê Chất ở khu đô thị mới, thị trấn Ch, Trần Văn Th đã có hành vi cất giữ trái phép 1,8203 gam Methamphetamine để sử dụng. Do vậy đại diện VKSND huyện Y thực hành quyền công tố tại phiên toà đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là có căn cứ, đúng pháp luật.

Bị cáo phạm tội không phải có tổ chức và trọng lượng ma túy cất giữ trái phép là 1,8203 gam Methamphetamine để sử dụng nên hành vi của bị cáo đã phạm vào khoản 1 Điều 194 BLHS. Theo khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999 thì có khung hình phạt từ 02-07 năm tù nhưng theo khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 quy định: “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Hêrôin, Côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam…”

Như vậy khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 có khung hình phạt nhẹ hơn khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999. Để đảm bảo có lợi cho bị cáo cần áp dụng BLHS năm2015 để xét xử đối với hành vi phạm tội của bị cáo.

Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Do vậy hành vi của bị cáo cần được xử lý nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Bị cáo từ trước đến nay chưa có sai phạm gì, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ được qui định tại điểm p khoản 1 điều 46 BLHS nên cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Căn cứ tính chất của vụ án thấy cần buộc bị cáo cách ly xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo.

Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, kinh tế gia đình khó khăn nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo

*Về nguồn gốc số ma túy: Th khai do H, sinh năm 1997 ở thị trấn Ch, huyện Y đưa cho để cùng sử dụng nhưng không biết địa chỉ cụ thể của H nên CQĐT không đủ căn cứ xác minh làm rõ.

Về vật chứng:CQĐT thu giữ 06 điếu thuốc lá Hero và 1,8203 gam Methamphetamine, qua giám định trọng lượng còn lại sau giám định là 0,8536 gam. Đây là vật liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội, giá trị sử dụng không có nên cần tịch thu tiêu huỷ.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Trần Văn Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33; Điều 41 BLHS năm 1999. Nghị quyết 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015. Điều 76, Điều 228; Điều 99 BLTTHS và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Điều 26 Luật thi hành án dân sự (LTHADS).

Phạt: Trần Văn Th 24 (Hai bốn) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 12/3/2017. Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án (18/7/2017) theo Quyết định tạm giam của HĐXX.

* Về vật chứng: Tịch thu 0,8536 gam Methamphetamine còn lại sau giám định và 06 điếu thuốc lá Hero để tiêu hủy .

* Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời  hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 LTHADS. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 LTHADS.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

254
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 85/2017/HSST ngày 18/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:85/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về