Bản án 85/2017/HNGĐ-ST ngày 20/07/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 85/2017/HNGĐ-ST NGÀY 20/07/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 20  tháng  7 năm 2017, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, xét  xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 553/2017/TLST-HNGĐ ngày 18/5/2017 về việc “Tranh chấp về ly hôn ” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 221/2017/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 6 năm 2017 giữa:

Nguyên đơn: Bà Phan Thị Thùy A, sinh năm: 1977

Địa chỉ: tổ 14 ấp 6,VLB,HBC,TPHCM

Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm: 1974

Địa chỉ:tổ 14 ấp 6,VLB,HBC,TPHCM

(Bà A và Ông T có đơn xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn ngày 05/5/2017 bà Phan Thị Thùy A trình bày: Bà A và ông Nguyễn Thanh T chung sống với nhau từ năm 1994, do tự tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới nhưng  không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, không có gì xảy ra đến năm 2016  thì phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Nay xét thấy tình cảm không còn nên Bà A yêu cầu được ly hôn với Ông T.

Trong thời gian chung sống Bà A và Ông T có 02 con chung tên Nguyễn Thị Thanh T, sinh  năm: 1994 (đã trưởng thành) và Nguyễn Tuấn T, sinh ngày: 07/12/2000. Sau khi ly hôn, Bà A giao trẻ T cho Ông T trực tiếp nuôi dưỡng và Bà A không cấp dưỡng nuôi con

Về tài sản chung và nợ chung: Bà A xác nhận không có.

Theo bản tự khai ngày  21/6/2017 bị đơn ông Nguyễn Thanh T trình bày: Ông T và bà Phan Thị Thùy A chung sống với nhau từ năm 1995, do tự tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới nhưng  không có đăng ký kết hôn. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, không có gì xảy ra đến năm 2016  thì phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung. Nay Bà A yêu cầu ly hôn thì Ông T đồng ý.

Trong thời gian chung sống Bà A và Ông T có 02 con chung tên Nguyễn Thị Thanh T, sinh  năm: 1994 (đã trưởng thành) và Nguyễn Tuấn T, sinh ngày: 07/12/2000. Sau khi ly hôn, Bà A giao trẻ T cho Ông T trực tiếp nuôi dưỡng và Bà A không cấp dưỡng nuôi con

Về tài sản chung và nợ chung: Ông T xác nhận không có.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.Viện kiểm sát nhân nhân huyện Bình Chánh đề nghị Hội đồng xét xử xem xét không công nhận bà Phan Thị Thùy A và ông Nguyễn Thanh T là vợ chồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu ý kiến  về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:Bà Phan Thị Thùy A nộp đơn xin ly hôn đối với ông Nguyễn Thanh T. Ông Nguyễn Thanh T có nơi cư trú tại huyện Bình Chánh. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39  của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh

[2] Bà Phan Thị Thùy A và ông Nguyễn Thanh T có đơn xin xét xử vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt bà Phan Thị Thùy A và ông Nguyễn Thanh T qui định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Bà Phan Thị Thùy A nộp đơn xin ly hôn với ông Nguyễn Thanh T vì cho rằng giữa bà và Ông T phát sinh mâu thuẫn từ năm 2016 cho đến nay, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung , hôn nhân vợ chồng không hạnh phúc. Bà Phan Thị Thùy A và ông Nguyễn Thanh T  tự nguyện sống chung với nhau vào năm 1994, có tổ chức đám cưới nhưng không có đăng ký kết hôn. Theo quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý” .

[4] Theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Nam, nữ có điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này”

[5] Tại khoản 4 điều 3 của thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 về hướng dẫn thi hành Luật Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, có quy định: “Trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn (không phân biệt có vi phạm điều kiện kết hôn hay không) và có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý, giải quyết và áp dụng Điều 9 và Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa họ. Nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con; quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật hôn nhân và gia đình”.

Từ những quy định trên, việc bà Phan Thị Thùy A yêu cầu xin ly hôn với ông Nguyễn Thanh T là không có sở để Hội đồng xét xử chấp nhận, cần tuyên bố bà Phan Thị Thùy A và ông Nguyễn Thanh T không phải là vợ chồng.

[6] Trong thời gian chung sống, bà Phan Thị Thùy A và ông Nguyễn Thanh T có 02 con chung tên Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm: 1994 ( đã trưởng thành) và Nguyễn Tuấn T, sinh ngày: 07/12/2000. Sau khi ly hôn Bà A giao trẻ T cho Ông T trực tiếp nuôi dưỡng, đồng thời tại biên bản ghi nhận ý kiến trẻ Nguyễn Tuấn T thì nếu ba mẹ không còn sống chung với nhau thì trẻ muốn sống với ba. Do đó, Hội đồng xét xử nghĩ nên giao  trẻ  Nguyễn Tuấn T cho Ông T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Do Ông T không yêu cầu Bà A cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử nghĩ nên ghi nhận việc Ông T không yêu cầu Bà A cấp dưỡng nuôi con.

[7] Về tài sản chung và nợ chung: Bà A và Ông T xác nhận không có nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[8] Về án phí: Bà Phan Thị Thùy A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Điều 203, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 9, 14, 81, 82, 83, 84, 116 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 về việc hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1/Về quan hệ vợ chồng: Không công nhận bà Phan Thị Thùy A và ông Nguyễn Thanh T là vợ chồng.

2/ Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm: 1994 ( đã trưởng thành) và Nguyễn Tuấn T, sinh ngày: 07/12/2000. Giao trẻ Nguyễn Tuấn T cho Ông T tiếp tục nuôi dưỡng đến trưởng thành, ghi nhận việc Ông T không yêu cầu Bà A cấp dưỡng nuôi con.

Bà A có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con sau sau này theo quy định tại Điều 83, Điều 84 và Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó theo quy định tại Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

3/ Về tài sản chung và nợ chung: Bà A và Ông T xác nhận không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4/Về án phí: Bà Phan Thị Thùy A chịu  300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà Bà A đã nộp theo biên lai thu số 0033332 ngày 15/5/2017 của Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh. Bà A đã nộp đủ án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5/. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 85/2017/HNGĐ-ST ngày 20/07/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:85/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về