Bản án 84/2019/HS-ST ngày 21/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 84/2019/HS-ST NGÀY 21/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 21 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện V xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 88/2019/HSST ngày 23/9/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2019/QĐXXST-HS, ngày 07 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Tiến Ph, sinh năm 1992; nơi cư trú: Thôn 7, xã Tăng Tiến, huyện V, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: công nhân; Văn hóa: 11/12; con ông Trần Tiến Giang và bà Thân Thị Nhàn; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/6/2019 đến nay; hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện V (có mặt tại phiên tòa).

* Người chứng kiến:

1. Chị Phan Thị Mỹ Tr, sinh năm 1984 (vắng mặt).

2. Anh Nguyễn văn S, sinh năm 1987 (vắng mặt).

Cùng nơi cư trú: Thôn Chùa, xã Tăng Tiến, huyện V, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 10 giờ 30 phút ngày 17/6/2019, tại cửa hàng tự chọn M của chị Phan Thị M ở thôn Ch, xã tăng T, huyện V, tỉnh Bắc Giang. Công an huyện V, tỉnh Bắc Giang bắt quả tang bị cáo Trần Tiến Ph về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Vật chứng thu giữ gồm:

Thu tại túi quần phía trước bên trái đang mặc của bị cáo: 01 túi ni lon màu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng và 01 viên nén màu hồng đỏ, trên mặt của viên nén có chữ “WY”. Tất cả được niêm phong trong phong bì có ký hiệu “QT”. Quá trình bắt quả tang, Trần Tiến Ph tự nguyện giao nộp gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, số model: A1688FCCID BCG-E2946A IC 579C-E2946A, đã qua sử dụng và số tiền 500.000 đồng.

Ti Kết luận giám định số 1031/KL-KTHS ngày 18/6/2019, Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: Tinh thể màu trắng và 01 (một) viên nén hình tròn màu hồng đỏ, trên một mặt của viên nén có chữ “WY” đựng trong 01 (một) túi ni lon màu trắng, một đầu có rãnh bằng nhựa đều là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng là: 0,234 gam (trong đó: khối lượng tinh thể màu trắng 0,135 gam; khối lượng 01 (một) viên nén 0,099 gam)”.

Về nguồn gốc số ma túy bị cáo khai: khoảng 10 giờ, ngày 17/6/2019, bị cáo đi xe ôm của một người đàn ông (không biết, tên, tuổi, địa chỉ, không nhớ biển kiểm soát của xe mô tô) đi đến khu vực đất trống phía sau chợ My Điền thuộc thôn My Điền 2, Hoàng Ninh, V gặp người phụ nữ (không biết, tên, tuổi, địa chỉ cụ thể), Phan nói với người này “bán cho em 1.1 (một một)”, vừa nói Phan vừa đưa cho 200.000 đồng (100.000 đồng tiền ma túy dạng đá, 100.000 đồng tiền ma túy hồng phiến đều), người phụ nữ cầm tiền rồi đưa cho Phan 01 túi ni lon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa bên trong chứa tinh thể màu trắng và 01 viên nén hình tròn màu hồng đỏ, trên mặt của viên nén có chữ “WY”. Số ma túy vừa mua được bị cáo đút vào túi quần phía trước bên trái đang mặc, rồi đi xe ôm về đến khu vực trước Cửa hàng bán tạp hóa tự chọn Minh Anh ở thôn Chùa, xã Tăng Tiến, huyện V thì xuống xe, Phan trả tiền cho người xe ôm hết 50.000 đồng. Khi bị cáo đi đến đoạn trước cửa hàng tạp hóa thì bị Tổ công tác Công an huyện V phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng liên quan.

Với nội dung trên, tại bản cáo trạng số 82/CT-VKS ngày 20/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố bị cáo Trần Tiến Ph về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình giống như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V truy tố.

Sau phần xét hỏi, tại phần tranh luận Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V phát biểu lời luận tội đối với bị cáo, phân tích tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi mà bị cáo đã thực hiện, giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên bố bị cáo Trần Tiến Ph phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Tiến Ph từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/6/2019. Áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền phạt bị cáo từ 5.000.000đ đến 10.000.000đ sung quỹ nhà nước.

Về xử lý vật chứng, án phí: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc.

Tch thu tiêu hủy 0,198 gam Methamphetamin (còn lại sau giám định);

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Iphone đã qua sử dụng có số Model: A1688FCCID BCG- E 2946A IC579C- E2946A và số tiền 500.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Ngoài ra còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo Bị cáo đồng ý với luận tội của Kiểm sát viên, không có ý kiến tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã được thu thập trong quá trình điều tra có trong hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ xác định: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 17/6/2019, tại cửa hàng tự chọn Minh Anh của chị Phan Thị M ở thôn Ch, xã tăng T, huyện V, tỉnh Bắc Giang, bị cáo Trần Tiến Ph đang có hành vi cất giấu 0,234 gam chất ma túy Methamphetamin để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V truy tố bị cáo là đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của nhà nước mà còn gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương. Do đó cần áp dụng hình phạt tương xứng với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mới có tác dụng răn đe, giáo dục riêng đối với bản thân bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng chống loại tội phạm này.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đều tỏ ra thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề xuất của đại diện viện kiểm sát về áp dụng tình tiết giảm nhẹ trên là phù hợp.

[5] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát đề xuất mức hình phạt từ 12 đến 15 tháng tù đối với bị cáo là phù hợp.

[6] Hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản, nê không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[7] Xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo:

Số ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành cần tich thu tiêu hủy.

Điện thoại, tiền mặt, không kiên quan đến tội phạm cần trả lại cho bị cáo; nhưng tạm giữ tiền để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo phải chịu án phí và được quyền kháng cáo theo quy định.

[8] Các vấn đề khác: Đối tượng bán ma túy cho bị cáo và đối tượng hành nghề xe ôm đưa bị cáo đi mua ma túy, không có thông tin về họ, tên, năm sinh, địa chỉ cụ thể. Cơ quan điều tra đã tách phần tài liệu liên quan đến người đàn ông này ra khỏi hồ sơ vụ án để tiếp tục điều tra làm rõ và xem xét xử lý sau là phù hợp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Tiến Ph 12 (mười hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 17/6/2019.

Về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 nghị quyết Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc.

Tch thu tiêu hủy 0,198 gam ma túy Methamphetamin (còn lại sau giám định) được niêm phong trong phong bì ký hiệu “QT” có dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Iphone có số Model: A1688FCCID BCG-E 2946A IC579C-E2946A. Trả lại bị cáo số tiền 500.000đ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Án xử công khai sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 84/2019/HS-ST ngày 21/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:84/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về