Bản án 84/2019/HSST ngày 09/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN T, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 84/2019/HSST NGÀY 09/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 74/2019/HSST ngày 04 tháng 6 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 108/2019/QĐXXST-HS ngày 25/6/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Anh T; sinh năm: 1990, tại: Bà Rịa-Vũng Tàu; trú tại: 4/16 đường Lưu Chí H, phường T, Thành phố H; nghề nghiệp: Làm bảng quảng cáo; trình độ học vấn: 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Hoa; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn B, sinh năm 1964 và bà Đinh Thị S, sinh năm 1966; vợ: Nguyễn Thị Bích Phượng, sinh năm 1992, và con: 02 người lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2014; tiền án: Không, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” – Có mặt

Bị hại: Chị Võ Thị Hồng V, sinh năm: 1996; trú tại: 39 đường C2, phường T, Thành phố H – Có đơn xin xét xử vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Bùi Quốc V, sinh năm 1991; trú tại: 39 đường C2, phường T, Thành phố H – Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 17/3/2019, Nguyễn Anh T đi làm về nhà tại số 4/16 đường Lưu Chí H, phường T, và lên phòng nằm ngủ. Đến khoảng 03 giờ 00 phút cùng ngày, T lên sân thượng hút thuốc thì phát hiện căn nhà số 39 đường C2, phường T, (Do anh Bùi Quốc V làm chủ) có ban công được bao bọc bởi khung hàng rào sắt phía bên ngoài và có cửa thông gió trên mái thông xuống nhà nên T nảy sinh ý định đột nhập trộm cắp tài sản bán lấy tiền.

T đi bộ ra đường C2, khi đến trước nhà số 27A đường C2, phường T, T thấy trước nhà có biển quảng cáo nên leo lên mái tôn rồi tiếp tục đi trên mái tôn các nhà xung quanh để tới vị trí nhà số 39 đường C2. T trèo lên khung hàng rào sắt bao bọc bên ngoài ban công tầng 1 và dùng tay phải mở cửa thông gió trên mái rồi trèo vào nhà. T đi cầu thang xuống tầng 1 để tìm tài sản trộm cắp. Trong lúc tìm kiếm tài sản, T làm rơi xuống đất 01 chùm chìa khóa để trên đầu tủ lạnh gây tiếng động lớn, sợ bị phát hiện nên T nhặt lên bỏ vào túi quần phía trước bên trái rồi đi lên tầng 1 thấy phía bên trái cầu thang có 03 phòng ngủ. T đi vào phòng đầu tiên tìm kiếm tài sản nhỏ gọn để trộm cắp nhưng không tìm thấy tài sản gì, T đi sang căn phòng số 2 và mở hé cửa thì thấy bên trong phòng có chị Nguyễn Thị Hồng V đang ngủ, trên đầu nằm bên trái chị V có để 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus, 64 GB, màu trắng nên T nảy sinh ý định trộm cắp điện thoại di động này nhưng do phía ngoài hành lang tầng 1 có đèn sáng, sợ bị phát hiện nên T khép hờ cửa phòng đi ra ngoài tắt đèn sau đó vào lại phòng số 2, bước men theo tấm nệm chị V đang nằm rồi dùng tay phải lén lút lấy trộm điện thoại Iphone bỏ vào túi quần bên phải phía trước, mở cửa phòng để đi ra ngoài thì chị V phát hiện tri hô, đuổi theo. Nghe tiếng tri hô của chị V, anh Bùi Quốc V đang nằm ngủ ở phòng số 3 chạy ra cùng chị V bắt quả tang T cùng tang vật đưa về trụ sở Cơ quan công an làm việc. Tại cơ quan điều tra Nguyễn Anh T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Theo Kết luận định giá tài sản số 125/KL-HĐĐGTS-TTHS ngày 12/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Ủy ban nhân dân quận T, tại thời điểm bị chiếm đoạt 01 điện thoại di động Iphone 8 Plus hiệu Apple, màu trắng 64GB trị giá 10.000.000 đồng.

Vật chứng:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus, hiệu Apple, màu trắng, 64Gb và 01 chùm chìa khóa (Gồm 01 chìa khóa xe máy Yamaha Jupiter; 01 móc khóa hình trái tim có chữ A; 01 móc khóa hình phật quan âm, đã thu hồi trả cho là chị Võ Thị Hồng V.

- 01 áo sơ mi tay ngắn sọc ca rô trắng và 01 quần jeans dài màu xanh, đây là bộ quần áo T mặc khi đột nhập vào nhà số 39 đường C2, phường T, để trộm cắp tài sản.

Tại bản cáo trạng số 80/CT-VKSQ.TP ngày 28 tháng 5 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân đã truy tố bị cáo Nguyễn Anh T về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên Tòa:

- Sau khi kết thúc phần thủ tục xét hỏi, Đại diện viện kiểm sát nhân dân giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa, phát biểu ý kiến giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h; điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh T từ 06 (Sáu) tháng đến 09 (Chín) tháng tù.

Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị xử lý phần trách nhiệm dân sự và vật chứng.

- Bị cáo Nguyễn Anh T đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung vụ án được tóm tắt như trên, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Điều tra viên, Kiểm sát viên, khi thực hiện hành vi cũng như ban hành các Quyết định tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án này đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đã có đủ cơ sở để xác định:

Vào khoảng 02 giờ 30 phút ngày 17/3/2019, sau khi đi làm về, Nguyễn Anh T lên sân thượng tại nhà số 4/16 đường Lưu Chí H, phường T, để hút thuốc thì phát hiện căn nhà số 39 đường C2, phường T, có ban công được bao bọc bởi khung hàng rào sắt phía bên ngoài và có cửa thông gió trên mái thông xuống nhà nên T nảy sinh ý định đột nhập trộm cắp tài sản. T đi bộ ra đường C2, khi đến trước nhà số 27A đường C2, phường T, T thấy trước nhà có biển quảng cáo nên leo lên mái tôn nhà này rồi tiếp tục đi trên mái tôn các nhà xung quanh để đến nhà 39 đường C2, phường T. T trèo lên khung hàng rào sắt bao bọc bên ngoài ban công tầng 1 và dùng tay phải để mở cửa thông gió ở trên mái rồi trèo vào nhà. T đi cầu thang xuống tầng trệt để tìm tài sản trộm cắp. Trong lúc tìm kiếm tài sản, T làm rơi chùm chìa khóa trên đầu tủ lạnh gây tiếng động lớn, sợ bị phát hiện nên T nhặt chùm chìa khóa bỏ vào túi quần phía trước bên trái của mình. Sau đó, T đi lên tầng 1 thấy có 03 phòng ngủ phía bên trái, thấy cửa phòng đầu tiên không đóng nên vào tìm tài sản để trộm cắp nhưng không thấy nên T đi sang căn phòng số 2 và mở hé cửa thì thấy bên trong phòng có chị Võ Thị Hồng V đang nằm ngủ, cạnh đầu nằm bên trái chị V có để 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus màu trắng nên T đi men theo tấm nệm, rồi dùng tay phải lén lút trộm điện thoại di động bỏ vào túi quần bên phải phía trước rồi đi ra ngoài thì chị V phát hiện tri hô cùng anh Bùi Quốc V bắt giữ T và tang vật đưa về trụ sở công an làm việc.

Vì vậy đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”, như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của người bị hại, lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus, qua định giá có giá trị 10.000.000 đồng nên Viện kiểm sát nhân dân truy tố bị cáo Nguyễn Anh T theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có cơ sở, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, gây mất an ninh trật tự ở địa phương. Bản thân bị cáo nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng xuất phát từ động cơ tư lợi, muốn có tiền tiêu xài một cách dễ dàng nhưng không muốn bỏ công sức lao động nên bị cáo đã cố ý phạm tội.

[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức án nghiêm khắc, mới có tác dụng răn đe giáo dục đối với bị cáo và đảm bảo công tác phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên cũng xem xét bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo điểm h, điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo chiếm đoạt là 01 điện thoại di động hiệu Apple Iphone 8 Plus và 01 chùm chìa khóa đã thu hồi trả cho người bị hại, chị V đã nhận đủ và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý phần trách nhiệm dân sự.

[6] Về xử lý vật chứng:

- 01 điện thoại Iphone 8 plus hiệu Apple, màu trắng và 01 chùm chìa khóa (gồm 01 chìa khóa xe máy Yamaha Jupiter; 01 móc khóa hình trái tim có chữ A;

01 móc khóa hình phật quan âm) đã trả lại cho chị Võ Thị Hồng V nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

- 01 áo sơ mi tay ngắn sọc ca rô trắng và 01 quần Jeans dài màu xanh thu giữ của bị cáo Nguyễn Anh T, tại phiên tòa hôm nay, bị cáo T không yêu cầu nhận lại nên tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Án phí: Bị cáo Nguyễn Anh T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo qui định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 173; điểm h, điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

- Điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội "Trộm cắp tài sản".

[2] Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh T 09 (Chín) tháng tù Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 áo sơ mi tay ngắn sọc ca rô trắng và 01 quần Jeans dài màu xanh thu giữ của bị cáo Nguyễn Anh T (Vật chứng hiện đang nhập kho theo Phiếu nhập kho vật chứng không số ngày 23/3/2019 của Công an).

[5] Buộc bị cáo Nguyễn Anh T nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Bị cáo Nguyễn Anh T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân Thành phố H. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 84/2019/HSST ngày 09/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:84/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về