Bản án 834/2017/HNGĐ-ST ngày 27/12/2017 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 834/2017/HNGĐ-ST NGÀY 27/12/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 27 tháng 12 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 571/2017/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 8 năm 2017 về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 407/2017/QĐST- HNGĐ ngày 30 tháng 11 năm 2017 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Chị Trần Thị N, sinh năm 1991; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 6, xã G, huyện T, thành phố Hải Phòng; hiện trú tại: Thôn Đ, xã V, huyện H, tỉnh Quảng Ninh, có mặt.

2.Bị đơn: Anh Đỗ Văn H, sinh năm 1983; địa chỉ: Thôn 6, xã G, huyện T, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.

3. Người đại diện theo pháp luật của anh Đỗ Văn H: Ông Đỗ Văn G, sinh năm 1955 và bà Vũ Thị V, sinh năm 1956; Địa chỉ: Thôn 6, xã G, huyện T, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn đề ngày 16 tháng 05 năm 2017 và các lời khai tại Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên cũng như lời khai tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Trần Thị N trình bày:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị N và anh Đỗ Văn H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 15 tháng 9 năm 2014 tại Ủy ban nhân dân xã Gia Đức, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị N và anh H chung sống hòa thuận hạnh phúc đến đầu năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong làm ăn kinh tế, sinh hoạt dẫn tới vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng, xúc phạm lẫn nhau. Do đó hai vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay. Chị N nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ, chị N yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H.

Tại biên bản lấy lời khai của anh Đỗ Văn H đối với yêu cầu của nguyên đơn ngày 31 tháng 10 năm 2017, anh H khai nhận về thời gian, điều kiện, hình thức kết hôn,nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng như nguyên đơn khai là đúng. Nay chị N có đơn xin ly hôn, anh H nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

[2] Về con chung: Chị Trần Thị N và anh Đỗ Văn H thống nhất khai vợ chồng có một con chung tên Đỗ Thị Thảo N, sinh ngày 14/01/2015. Trường hợp ly hôn chị N có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị N và anh H tự thỏa thuận với nhau, chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Đỗ Văn H đồng ý với lời khai của chị N về con chung và cũng có nguyện vọng được nuôi con.

[3] Về tài sản chung: Chị Trần Thị N và anh Đỗ Văn H thống nhất khai vợ chồng không có tài sản chung nên chị N và anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4] Người đại diện theo pháp luật cho anh Đỗ Văn H là bà Vũ Thị V có lời khai có trong hồ sơ thể hiện: Về quan hệ hôn nhân và mâu thuẫn vợ chồng của chị Trần Thị N và anh Đỗ Văn H như chị N và anh H đã khai là đúng. Nay chị N tự ý bỏ nhà đi, anh H và gia đình đã khuyên bảo nhiều lần xong không có kết quả. Nay chị N có đơn xin ly hôn với anh H thì quan điểm của bà là đề nghị Tòa án giải quyết cho chị N và anh H được ly hôn. Về con chung, bà đồng ý để chị N tiếp tục nuôi dưỡng cháu Đỗ Thị Thảo N, về cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung của chị N và anh H, bà V không đề nghị giải quyết đồng thời bà V không có đề nghị nào khác.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ tài liệu điều tra có trong hồ sơ thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Thị N và anh Đỗ Văn H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; Điều 56;Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và  gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Đỗ Văn H và người đại diện theo pháp luật cho anh Đỗ Văn H vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Thị N và anh Đỗ Văn H là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong lao động, sinh hoạt, làm ăn kinh tế dẫn đến vợ chồng xảy ra cãi mắng, xúc phạm nhau. Mặt khác do anh H bị bệnh và hai vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay. Chị N xin ly hôn, anh H cũng thừa nhận tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. Mâu thuẫn của hai vợ chồng đã được gia đình hòa giải nhưng không cải thiện được. Bà Nguyễn Thị V là mẹ đẻ của anh H đồng thời là người đại diện theo pháp luật của anh H cũng có quan điểm đề nghị Tòa án giải quyết cho chị N và anh H ly hôn. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị N và anh H đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và Gia đình.

[3]. Về con chung: Chị Trần Thị N và anh Đỗ Văn H có một con chung tên Đỗ Thị Thảo N, sinh ngày 14/01/2015. Trường hợp ly hôn chị N có nguyện vọng được nuôi con chung. Anh H cũng có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung. Tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Xét thấy hiện nay chị N là người trực tiếp chăm sóc con chung và vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt. Mặt khác, cháu Đỗ Thị Thảo N chưa đủ 36 tháng tuổi và anh H hiện đang phải theo dõi chữa bệnh nên không có đủ điều kiện trực tiếp nuôi con chung. Vì vậy cần giao cho chị N được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Đỗ Thị Thảo N là phù hợp Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Anh Đỗ Văn H có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Trần Thị N đề nghị để hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên hội đồng xét xử không xem xét.

 [4]. Về tài sản chung: Chị Trần Thị N và anh Đỗ Văn H thống nhất không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì chị Trần Thị N phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 1 Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị N được ly hôn anh Đỗ Văn H.

2. Về con chung: Giao cho chị Trần Thị N được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Đỗ Thị Thảo N, sinh ngày 14/01/2015 cho đến khi cháu Thảo N đủ 18 tuổi và có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Trần Thị N không yêu cầu nên hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản ttrở.

3. Về tài sản chung: Chị Trần Thị N và anh Đỗ Văn H thống nhất không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Trần Thị N phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí chị Nhặt đã nộp theo biên lai số 0005720 ngày 18/8/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị Trần Thị N đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị N có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Đỗ Văn H và người đại diện theo pháp luật của anh H là ông Đỗ Văn G và bà Vũ Thị V vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày bản được giao cho anh H, ông G, bà V hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

- Về quyền yêu cầu thi hành án: Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 834/2017/HNGĐ-ST ngày 27/12/2017 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung khi ly hôn

Số hiệu:834/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về