Bản án 83/2020/HS-ST ngày 29/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ GIÁO, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 83/2020/HS-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 79/2020/TLST-HS ngày 03/9/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2020/QĐXXST-HS, ngày 07 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Vương Thị N D, sinh ngày 31/7/1995 tại tỉnh Bình Dương. Nơi cư trú: Ấp B, xã A, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vương Minh S, sinh năm 1963 và bà Phạm Thị L, sinh năm 1972; bị cáo có chồng là Lê Minh H, sinh năm 1995, bị cáo có 02 người con lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2014, tiền án: 02. Theo Bản án số 20/2016/HSST ngày 14/3/2016 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Theo Bản án số 06/2018/HSST ngày 18/02/2018, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” , tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/6/2020 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Vương Minh S, sinh năm 1963. Nơi cư trú: Ấp B, xã A, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. Có đơn xin vắng mặt.

2. Bà Trần Thị T, sinh năm 1970. Nơi cư trú: Chùa TT, phường HA, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 06/6/2020, Vương Thị N D do muốn có ma túy để sử dụng nên D sử dụng điện thoại di động có số thuê bao 0336.xxxxxx nhắn tin vào số thuê bao 0971.xyxyxy của đối tượng tên Nam (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua ma túy với số tiền 300.000 đồng thì N đồng ý và hẹn D ra khu vực chợ T, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương để lấy ma túy. Sau đó, D điều khiển xe mô tô biển số 61B1-yyyyy đến điểm hẹn, tại đây D đưa cho N số tiền 300.000 đồng và N giao cho D 01 bịch nylon màu trắng hàn kín bên trong có chứa ma túy đá. Sau khi mua được ma túy D điều khiển xe mô tô quay về nhà, trên đường về D ghé vào một tiệm thuốc tây (không rõ tên cửa tiệm) bên đường để mua thuốc uống, lúc này, D xin chủ tiệm thuốc 01 vỏ hộp thuốc bằng nhựa nhãn hiệu TERPINCOLD và bỏ bịch ma túy vào cất giấu, D cầm ma túy trên tay trái rồi tiếp tục điều khiển xe mô tô về nhà. Khi D đi đến đoạn đường ĐH 516, thuộc ấp 5, xã T, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, lúc này khoảng 10 giờ 10 phút thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Qua làm việc D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Kết luận giám định số 336/MT-PC09 ngày 12/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có trọng lượng 0.2038gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo thu giữ:

- 01 (một) bịch nylon hàn kín bên trong có chứa chất màu trắng dạng tinh thể được niêm phong trong một bì thư, có chữ ký của đối tượng bị bắt Vương Thị N D, chữ ký của cán bộ niêm phong Phạm Văn G và hình dấu đỏ của Công an xã T, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương;

- 01 (một) xe mô tô biển số 61B1-yyyyy, hiệu HONDA, loại WAVE RSX số khung: JC52E5175373, số máy 5222CY031697;

- 01 (một) điện thoại di động hiệu ViVo màu bạc;

- 01 (một) hộp thuốc bằng nhựa hiệu TERPINCOLD.

Tại bản Cáo trạng số 78/CT-VKSPG ngày 03/9/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Vương Thị N D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố của Cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố bị cáo Vương Thị N D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 05 (Năm) năm đến 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/6/2020. Đồng thời đề nghị xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì thư có ký hiệu 336/PC09 niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bình Dương có chữ ký của Vương Thị N D có trọng lượng 0,1665 gam, loại Methamphetamine và 01 hộp thuốc bằng nhựa hiệu TERPINCOLD.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu ViVo màu bạc thu giữ của Vương Thị N D.

Phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận, đồng ý với tội danh và mức hình phạt mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Vương Minh S trong quá trình điều tra đã có lời khai: Xe mô tô biển số 61B1-yyyyy, hiệu HONDA là của bà Trần Thị T cho ông. Ngày 06/6/2020, bị cáo D sử dụng chiếc xe trên để đi mua ma túy, ông không biết, hiện tại chiếc xe trên ông đã được trả lại, ông không có ý kiến gì.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị T trong quá trình điều tra đã có lời khai xe mô tô biển số 61B1-yyyyy là do bà cho ông Vương Minh S, bà không có ý kiến gì về chiếc xe trên.

Trong lời nói sau cùng bị cáo xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Phú Giáo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. HĐXX xét thấy các quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Vương Thị N D khai nhận: Ngày 06/6/2020, bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine, có trọng lượng 0,2038 gam. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Về nhận thức, bị cáo biết được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo đủ tuổi, đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Ngày 14/3/2016, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 18/02/2018, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích nhưng lại tiếp tục phạm tội mới do cố ý nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung là tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chính sách quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, ảnh hưởng đến trật tự trị an trong khu vực, ảnh hưởng tiêu cực đến công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy mà Nhà nước ta đang tiến hành. Ma túy đang là hiểm họa của nhân loại vì sử dụng rồi thì rất khó từ bỏ, nó không những gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, kinh tế của người sử dụng mà còn làm lây lan nhiều căn bệnh xã hội nguy hiểm, là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác. Bị cáo đã có 02 tiền án, bị cáo đã đi chấp hành án, được học tập, cải tạo nhưng bị cáo không chịu tu dưỡng, rèn luyện mà tiếp tục phạm tội mới thể hiện thái độ coi thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy, cần phải có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, có như vậy mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời nêu gương phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, HĐXX xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như sau:

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về xử lý vật chứng của vụ án:

[8] Đối với 01 (một) bì thư có ký hiệu 336/PC09 niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bình Dương có chữ ký của Vương Thị N D, mẫu vật hoàn lại sau giám định có trọng lượng 0,1665 gam, loại Methamphetamine, đây là vật cấm nên HĐXX quyết định tịch thu tiêu hủy.

[9] Đối với 01 (một) xe mô tô biển số 61B1-yyyyy, hiệu HONDA, loại WAVE RSX số khung: JC52E5175373, số máy 5222CY031697. Xe mô tô trên do bà Trần Thị T đứng tên chủ sở hữu. Bà T đã cho ông Vương Minh S nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 06/6/2020, ông S cho bị cáo D mượn xe làm phương tiện đi lại, ông S không biết bị cáo sử dụng xe mô tô trên vào việc phạm tội. Ngày 15/8/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo đã trả lại xe mô tô cho ông S, ông S đã nhận lại xe và không yêu cầu gì thêm.

[10] Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu ViVo màu bạc, thu giữ của Vương Thị N D. Ngày 06/6/2020, bị cáo đã sử dụng điện thoại trên vào việc phạm tội nên HĐXX quyết định tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

[11] Đối với 01 (một) hộp thuốc bằng nhựa hiệu TERPINCOLD, không còn giá trị sử dụng nên HĐXX quyết định tịch thu tiêu hủy.

[12] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt, về xử lý vật chứng là có căn cứ và phù hợp quy định của pháp luật nên chấp nhận.

[13] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo Vương Thị N D, chưa xác định được nhân thân lai lịch, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.

[14] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249; Điều 47, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, các Điều 106, 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vương Thị N D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Vương Thị N D 05 (Năm) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/6/2020.

3. Về vật chứng của vụ án:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) bì thư có ký hiệu 336/PC09 niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bình Dương có chữ ký của Vương Thị N D, mẫu vật hoàn lại sau giám định có trọng lượng 0,1665 gam và 01 (một) hộp thuốc bằng nhựa hiệu TERPINCOLD;

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu ViVo màu bạc thu giữ của Vương Thị N D.

(Thể hiện tại Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 03/9/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Vương Thị N D phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 83/2020/HS-ST ngày 29/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:83/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Giáo - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về