Bản án 83/2019/HNGĐ-ST ngày 22/08/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 83/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/08/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 22 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 195/2019/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 5 năm 2019 về việc “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình – Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 158/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 111/2019/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị K C, sinh năm 1995 (Có mặt)

Địa chỉ: ấp MP, xã ĐM, huyện T, tỉnh An Giang.

Nơi ở hiện nay: số 155, tổ 8, ấp HP 2, thị trấn AC, huyện CT, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn T T, sinh năm 1984 (Vắng mặt)

Địa chỉ: ấp MP, xã ĐM, huyện T, tỉnh An Giang.

(Đã được tống đạt thủ tục tố tụng hợp lệ)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Nguyễn Thị K C trình bày:

Chị và anh Nguyễn T T do mai mối và tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2015, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã ĐM, huyện T, tỉnh An Giang ngày 17/9/2015. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, có 01 con chung tên Nguyễn K N sinh ngày 03/5/2017. Nhưng đến tháng 11/2017 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do anh Trung không quan tâm gia đình, chỉ lo chơi game, tiền phát gạo đông, vợ chồng thường xuyên cự cãi. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 4/2019 đến nay. Nhận thấy, tình cảm không còn, cuộc sống hôn nhân không thể hàn gắn và kéo dài nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn T T.

- Về quan hệ con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn K N sinh ngày 03/5/2017. Sau khi ly hôn, chị Cương yêu cầu được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh Trung cấp dưỡng nuôi con.

- Về quan hệ tài sản:

+ Về tài sản chung: Không có.

+ Về nợ chung: Không có.

* Về phía bị đơn anh Nguyễn T T: Trong quá trình thụ lý vụ án và hòa giải, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật và triệu tập hợp lệ đương sự đến lần thứ hai nhưng anh Trung không gửi văn bản ghi ý kiến của bản thân cũng không đến tham gia phiên hòa giải nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của anh Trung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về ly hôn, bị đơn anh Nguyễn T T có địa chỉ tại ấp MP, xã ĐM, huyện T, tỉnh An Giang nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Bị đơn anh Nguyễn T T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Nguyễn T T.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị K C với anh Nguyễn T T chung sống với nhau từ năm 2015, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã ĐM, huyện T, tỉnh An Giang ngày 17/9/2015. Vì vậy, đây là hôn nhân hợp pháp phù hợp với quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị K C, Hội đồng xét xử xét thấy: Chị Cương và anh Trung chung sống với nhau hạnh phúc thời gian đầu. Nhưng đến tháng 11/2017 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh Trung không quan tâm gia đình, chỉ lo chơi game, tiền phát gạo đông, vợ chồng thường xuyên cự cãi. Vì thương con còn nhỏ chị Cương cố gắng chịu đựng nhưng anh Trung vẫn không thay đổi nên chị Cương và anh Trung đã ly thân từ tháng 4/2019 cho đến nay. Mặc dù biết chị Cương nộp đơn khởi kiện xin ly hôn nhưng anh Trung cũng không đến liên hệ, không có ý định thể hiện mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị Cương để xây dựng hạnh phúc gia đình và nuôi dạy con chung. Về phía anh Trung, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng cho anh Trung, tạo điều kiện cho anh Trung hàn gắn tình cảm với chị Cương nhưng anh Trung không đến tham dự các phiên hòa giải, xét xử và cũng không có văn bản nào nêu ý kiến phản đối về yêu cầu khởi kiện của chị Cương. Hội đồng xét xử xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị K C và anh Nguyễn T T đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó có đủ căn cứ để áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị K C.

[2.2] Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị K C và anh Nguyễn T T có 01 con chung tên Nguyễn K N sinh ngày 03/5/2017 (hiện đang sống với chị Cương). Xét yêu cầu xin nuôi con của chị Cương, Hội đồng xét xử nhận thấy: hiện tại cháu Ngân đang được chị Cương chăm sóc, nuôi dưỡng và đến nay cháu Ngân chưa đủ 36 tháng tuổi nên nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bình thường về thể chất, tinh thần và ổn định cuộc sống của cháu Ngân Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ để áp dụng Khoản 3 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu của chị Cương, giao cháu Nguyễn K N cho chị Cương tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục nhưng chị Cương phải tạo điều kiện cho anh Trung đến thăm nom con chung, không ai được ngăn cản.

Ti phiên tòa hôm nay, chị Cương không yêu cầu anh Trung phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Tuy nhiên, khi có điều kiện và tình hình thời gian thay đổi thì các bên có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con chung.

[2.3] Về quan hệ tài sản:

Về tài sản chung: Không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Do chị Nguyễn Thị K C yêu cầu giải quyết ly hôn nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 9, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị K C.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị K C được ly hôn với anh Nguyễn T T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 101, Quyển số 01/2015 ngày 17 tháng 9 năm 2015 của Ủy ban nhân dân xã ĐM, huyện T, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

2. Về quan hệ con chung:

Giao 01 con chung tên Nguyễn K N sinh ngày 03/5/2017 (hiện đang sống với chị Cương) cho chị Nguyễn Thị K C trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng.

Anh Nguyễn T T không phải cấp dưỡng nuôi con chung nhưng được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được ngăn cản.

Chị Nguyễn Thị K C phải tạo điều kiện cho anh Nguyễn T T được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung. Vì lợi ích của con, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về quan hệ tài sản:

- Về tài sản chung: Không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Ghi nhận chị Nguyễn Thị K C và anh Nguyễn T T không có nợ chung, nhưng sau khi bản án này có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của anh, chị trong thời kỳ sống chung thì chị Nguyễn Thị K C và anh Nguyễn T T vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách là đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị K C phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000172 ngày 08 tháng 5 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh An Giang.

5. Chị Nguyễn Thị K C có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn T T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 83/2019/HNGĐ-ST ngày 22/08/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:83/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Châu - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về